Tiếng Quang Nam

Tiếng Quang Nam

Tân Quang là một xã thuộc huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang, Việt Nam.

Tân Quang là một xã thuộc huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang, Việt Nam.

Tiến ra Thăng Long lần thứ nhất

Chiếm được Phú Xuân, thừa thắng quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy tiến ra Quảng Bình, thủ tướng quân Trịnh ở đây bỏ chạy, Tây Sơn chiếm được toàn bộ đất Thuận Hóa. Nguyễn Huệ bèn họp các tướng bàn việc sửa lại địa giới La Hà; đồng thời sai làm tờ "lộ bố" (thư báo tin thắng trận) báo tin thắng trận về cho Nguyễn Nhạc. Nguyễn Hữu Chỉnh khuyên Nguyễn Huệ xua quân ra Bắc mà chiếm đất Bắc Hà, Nguyễn Huệ do dự, Nguyễn Hữu Chỉnh nói rằng: Sách địa ký của họ Trịnh có câu Phi đế phi bá, quyền khuynh thiên hạ, truyền tộ bát đại, tiêu tường khởi hoạ (Chẳng đế chẳng bá, quyền nghiêng thiên hạ, truyền được tám đời, trong nhà dấy vạ). Họ Trịnh cầm quyền đã 200 năm, đủ 8 đời chúa, nay sắp bị diệt là đúng với câu ấy. Nguyễn Huệ nghe lời, bèn cho Nguyễn Lữ ở lại Phú Xuân, sai Nguyễn Hữu Chỉnh dẫn thủy binh đi trước, còn mình đi sau hậu ứng.[50][51]

Nguyễn Hữu Chỉnh dẫn thủy binh đi trước, đi qua đất Thanh Nghệ, dừng lại sai du binh vài trăm người đánh các đồn phô trương thanh thế. Quan trấn thủ Thanh Hóa, Nghệ An đều bỏ chạy. Đến tháng 6 năm 1786, Chỉnh chiếm được kho lương lớn ở Vị Hoàng (Nam Định). Chỉnh báo tin cho Nguyễn Huệ thuận theo gió nồm tiến ra, dân Nghệ An thấy bóng lâu thuyền cùng cờ quạt ngoài biển đều than chửi Nguyễn Hữu Chỉnh:"Cõng rắn cắn gà nhà, hắn ta thật có tội. Song cũng là một việc không mấy đời có!".[51][52]

Chúa Trịnh nghe tin đất Nghệ An nguy cấp vội sai Trịnh Tự Quyền mang 27 cơ quân vào Nghệ An chống giữ, nhưng sửa soạn 10 ngày vẫn chưa đi được. Khi đi được 30 dặm, lúc ấy quân Tây Sơn đã đến Vị Hoàng, Tự Quyền mang quân giữ Kim Động. Quan trấn thủ Sơn Nam là Bùi Thế Dận đem quân giữ ở xã Phù Sa, huyện Đông An. Đinh Tích Nhưỡng đem thủy binh ra giữ ở cửa Luộc. Đến đêm có gió Đông Nam, Nguyễn Huệ sai lấy tượng gỗ bỏ lên mấy chiếc thuyền, rồi đánh trống kéo cờ thả thuyền trôi đi. Đinh Tích Nhưỡng dàn trận bắn, bắn mãi mới biết là tượng gỗ. Quân Tây Sơn tiến đánh, Tích Nhưỡng hết thuốc súng, bỏ chạy, đám quân của Trịnh Tự Quyền và Bùi Thế Dận nghe tin tan vỡ cả.[51]

Ở kinh thành, lực lượng ưu binh là quân Thanh - Nghệ, nhưng Chúa Trịnh Khải không sai khiến được, Trịnh Khải đành trao quyền cho quận Thạc - Hoàng Phùng Cơ chỉ huy. Quân Tây Sơn tiến tới Thanh Trì, thủy binh ở đây nghĩ Tây Sơn còn lâu mới đến nên đội hình tản mát, không phòng bị gì, bị chiếm hết thuyền bè. Quân Tây Sơn tiến đến chỗ quân quận Thạc chỉ huy, lúc ấy đang giờ ăn cơm, nghe quân Tây Sơn đến thì bỏ chạy hết, quận Thạc sống sót nhưng mất đến 6 người con. Trịnh Khải tự lên voi giao chiến với Tây Sơn, rốt cuộc thua chạy, bỏ lên Sơn Tây, sau đó tự sát, Nguyễn Huệ chôn theo nghi lễ của bậc đế vương.[51]

Nguyễn Huệ vào thành Thăng Long yết kiến vua Lê Hiển Tông, cấm quân lính cướp phá dân gian. Nguyễn Huệ đem các tướng vào lạy Lê Hiển Tông và dâng sổ quân sĩ, dân đinh để tỏ rõ cái nghĩa tôn phù nhất thống, nghĩa là tự đó về sau Nhà Lê có quyền tự chủ. Vua Lê phong cho Nguyễn Huệ làm Nguyên Soái Uy Quốc Công, và lại gả cho Ngọc Hân Công Chúa. Tháng 7 năm 1786, vua Lê Hiển Tông qua đời, thọ 70 tuổi. Hoàng Tôn là Duy Kỳ lên nối ngôi, đặt niên hiệu là Chiêu Thống.[51][53]

Nguyễn Nhạc vốn không có ý lấy đất Bắc, nay nghe tin Nguyễn Huệ chiếm được Thăng Long, sợ lâu ngày sinh biến, bèn đem theo 500 quân, sau lấy thêm 2000 người nữa, không kể ngày đêm ra Thăng Long. Vua Chiêu Thống muốn nhường mấy quận để làm lễ khao quân nhưng Nguyễn Nhạc từ chối. Hôm sau hai anh em đem quân trở về Nam, tất cả lương thực, kho tàng,... đều đem về Nam hết, để lại cho vua Lê một kho tàng trống không. Hai anh em lại thấy Nguyễn Hữu Chỉnh xảo quyệt, nên muốn bỏ Hữu Chỉnh ở lại. Nguyễn Huệ giữ Hữu Chỉnh ở lại trò chuyện suốt cả ngày, trong khi Tây Sơn thu dọn để về Nam, hòng không cho Chỉnh biết. Đến sáng, Chỉnh thấy quân Tây Sơn về hết, liền chạy về theo dù bị dân kinh kỳ đuổi bắt may chạy thoát, đến đất Nghệ An, Nguyễn Nhạc cho một ít tiền, bảo lưu lại đó.[51]

Theo sách Việt Nam sử lược, khi dẫn quân từ miền Bắc về Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc xưng đế, đồng thời phong vương cho 2 người em và ban cho họ cai quản đất phong:[54] Nguyễn Nhạc xưng là Trung ương Hoàng đế, đóng đô ở Quy Nhơn; Phong Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương, cai quản vùng đất Gia Định; Phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương, cai quản vùng đất Thuận Hóa, lấy núi Hải Vân làm giới hạn.

Mâu thuẫn của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ ngày càng lớn. Vua Tây Sơn vốn không có ý đánh ra Bắc Hà,[55] chỉ muốn chiếm Nam Hà;[56] việc Huệ đánh Bắc Hà là trái ý Nguyễn Nhạc, lại thấy Nguyễn Huệ ở Bắc Hà lâu quá sau khi thắng nên Nguyễn Nhạc đâm ra lo sợ vì khó kiềm chế được Nguyễn Huệ.[57] Sử sách không ghi chép thật rõ ràng về nguyên nhân mâu thuẫn giữa 2 người. Các sử gia nhà Nguyễn cho rằng tại Nguyễn Nhạc tư thông với vợ Nguyễn Huệ [cần dẫn nguồn]. Tuy nhiên, một nguồn từ báo Dân Việt phân tích cho rằng điều này là sai. Theo đó, Nguyễn Huệ lúc đó có 2 vợ còn sống và họ đều ở rất xa Quy Nhơn: bà họ Bùi theo chồng ra cư trú tại Phú Xuân, còn bà Ngọc Hân thì vẫn ở Thăng Long.[58] Có tài liệu khác lại nói rằng Nguyễn Nhạc yêu cầu Nguyễn Huệ đến chầu, nộp vàng bạc lấy từ kho của họ Trịnh ở Bắc Hà nhưng Nguyễn Huệ không chịu; hơn thế vua em lại xin vua anh cho cai quản thêm Quảng Nam nhưng vua anh không chấp thuận[59].

Nguyễn Huệ tỏ ra chống đối Nguyễn Nhạc và binh lính lại rất trung thành với ông.[56] Nguyễn Nhạc phẫn chí, giết công thần Nguyễn Thung[56][60] Nguyễn Huệ đem quân đánh với Nguyễn Nhạc trong vài tháng đầu năm 1787, ông tổng động viên chừng 6 vạn tới 10 vạn quân.[61] Họ đánh nhau dữ dội và sau đó Nguyễn Huệ tiến đến vây thành Quy Nhơn, đắp thành đất, bắn đại bác vào thành. Theo sách Đại Nam thực lục:Huệ cùng Nhạc đánh nhau, giết hại rất nhiều, rồi giảng hòa, Huệ lui quân, giữ từ Thăng Hoa, Điện Bàn trở ra Bắc, đóng ở Phú Xuân, tự xưng là Bắc Bình Vương. Từ đấy Tây Sơn rối từ trong, không còn rảnh mà nhòm ngó miền Nam nữa.[62]

Nguyễn Nhạc bị vây bức quá phải vào đền thờ cha mẹ khóc rồi kêu Đặng Văn Chân từ Gia Định về cứu nhưng quân Đặng Văn Chân tới nơi lại bị Nguyễn Huệ đánh tan, buộc Đặng Văn Chân phải tới hàng.[63] Tuy quân của Nguyễn Huệ trong các cuộc công thành thương vong đến phân nửa[63] nhưng tình thế buộc Nguyễn Nhạc phải lên mặt thành khóc xin em "Nỡ lòng nào mà nồi da xáo thịt như thế".[64] Nguyễn Huệ nể tình anh em, thôi hãm thành và bằng lòng giảng hòa với Nguyễn Nhạc, rồi rút về Thuận Hóa[64]

Ở Bắc Hà, Chúa Trịnh đã sụp đổ, vua Lê Chiêu Thống nắm được quyền bính, nhưng vị vua này không có tài và tính quyết đoán, triều đình lúc bấy giờ không ai là người có năng lực: hễ thấy có giặc thì bỏ chạy, giặc đi rồi thì kéo nhau ra bàn ngược bàn xuôi, người thì định lập lại nghiệp chúa, kẻ thì muốn tôn phù nhà vua. Lại có dòng dõi họ Trịnh là Trịnh Lệ và Trịnh Bồng chia đảng ra đánh nhau để tranh quyền. Vua Chiêu Thống bất đắc dĩ phải phong cho Trịnh Bồng làm Án Đô Vương, lập lại phủ Chúa. Đảng họ Trịnh lại toan đường hiếp chế nhà vua, vua Chiêu Thống phải xuống mật chiếu vời Nguyễn Hữu Chỉnh, lúc ấy đã nắm binh quyền ở Nghệ An ra giúp. Nguyễn Hữu Chỉnh kéo quân từ Nghệ An ra đánh bại Trịnh Bồng, Trịnh Bồng thua chạy, mấy lần nữa khởi binh vẫn thua, rốt cuộc đi tu, sự nghiệp Chúa Trịnh chấm dứt từ đây. Vua Lê Chiêu Thống phong Nguyễn Hữu Chỉnh chức Đại tư đồ Bằng trung công, Hữu Chỉnh tự quyết đoán mọi việc.[65] Nắm được uy quyền cao ở triều đình, Nguyễn Hữu Chỉnh tỏ ra chuyên quyền, muốn chống lại Tây Sơn.

Tại Đàng Trong, giữa năm 1787, do 2 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đánh nhau, Nguyễn Lữ lại bất tài nên mặt phía Nam của Tây Sơn suy yếu. Nguyễn Ánh từ Xiêm quay trở lại Gia Định. Nguyễn Lữ sợ, bỏ Phạm Văn Tham ở lại giữ Sài Gòn, còn ông giữ Biên Hòa. Nguyễn Ánh làm giả một bức thư của Nguyễn Nhạc gửi cho Nguyễn Lữ, nội dung là lệnh giết Phạm Văn Tham, rồi giả vờ gửi cho Tham. Tham liền kéo quân đến phân trần với Lữ, Lữ tưởng lầm Tham đã đầu hàng kéo quân đánh mình, liền rút về Quy Nhơn, sau đó chết vì bệnh. Nguyễn Ánh chiếm được Gia Định, quân Tây Sơn do Phạm Văn Tham chỉ huy đóng ở Ba Thắc.[66]

Trước tình hình Nam, Bắc đều có biến, Nguyễn Huệ quyết định giải quyết vấn đề phía bắc trước. Ông liền phái Vũ Văn Nhậm, con rể của Nguyễn Nhạc, ra tiêu diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Vũ Văn Nhậm đánh bại Nguyễn Hữu Chỉnh, khiến Chỉnh và hoàng gia họ Lê phải chạy trốn khỏi kinh thành. Sau đó Hữu Chỉnh bị Vũ Văn Nhậm bắt và giết chết, vua Lê Chiêu Thống tìm cách khôi phục nhưng đều không có kết quả. Tháng 4 năm 1788, Lê Chiêu Thống đã bỏ kinh đô, chạy sang lưu vong bên Trung Quốc. Vũ Văn Nhậm bèn lập chú Chiêu Thống là Sùng nhượng công Lê Duy Cận làm giám quốc, bây giờ trong cung chỉ có vài hoàng thân và võ tướng, không ai tâu bày việc gì cả, mọi việc do Vũ Văn Nhậm quyết định. Đến lượt Vũ Văn Nhậm tỏ ra chuyên quyền và có ý chống lại quân Tây Sơn.[67]

Trước đây Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra đánh Nguyễn Hữu Chỉnh thì đã có lòng nghi Vũ Văn Nhậm, cho nên lại sai Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân làm tham tán quân vụ để chia bớt binh quyền. Đến khi Văn Nhậm lấy được Thăng Long, giết được Hữu Chỉnh rồi, có ý cậy tài và ra bộ kiêu ngạo. Ngô Văn Sở đem ý ấy viết thư về nói Vũ Văn Nhậm muốn làm phản. Nguyễn Huệ lập tức truyền lệnh kéo quân kỵ, đêm ngày đi gấp đường ra Thăng Long, nửa đêm đến nơi bắt Vũ Văn Nhậm giết đi, rồi truyền gọi các quan văn võ Nhà Lê cho vào yết kiến, đặt quan lục bộ và các quan trấn thủ, để Lê Duy Cận làm giám quốc, chủ trương việc tế lễ, dùng Ngô Thời Nhậm làm Lại Bộ Tả Thị Lang. Còn các quan Nhà Lê thì có người ở lại nhận chức, có người trốn đi, cũng có người tuẫn tiết. Ngô Thì Nhậm khuyên Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế đồng thời vận động các quan lại Nhà Lê suy tôn ông cho hợp cách. Sau ba bức thư suy tôn của quần thần Nhà Lê cùng một chiếu chỉ của Nguyễn Huệ trưng cầu ý dân Bắc Hà về việc ông lên ngôi nhưng tình hình chưa thuận lợi nên Nguyễn Huệ chưa thể lên ngôi. Nguyễn Huệ sắp xếp mọi việc, để Ngô Văn Sở ở lại giữ Bắc Hà, còn mình về Phú Xuân, đem theo một số văn thần.[68][69]

Nguyên vua Lê Chiêu Thống đã mấy lần toan sự khôi phục, nhưng không được, phải nương náu ở đất Lạng Giang; còn bà Hoàng Thái Hậu thì đem hoàng tử sang Long Châu kêu than với quan Nhà Thanh - Trung Quốc, xin binh cứu viện. Bấy giờ quan tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị dâng biểu tâu với vua Càn Long Nhà Thanh xin được đánh An Nam. Vua Càn Long nghe lời tâu ấy, sai Tôn Sĩ Nghị khởi quân bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam, đem sang đánh Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị chia quân ra làm 3 đạo tổng cộng khoảng 29 vạn quân, sai quan tổng binh tỉnh Vân Nam và Quý Châu đem một đạo sang mạn Tuyên Quang, sai Sầm Nghi Đống là tri phủ Điền Châu đem một đạo sang mạn Cao Bằng. Sĩ Nghị cùng với đề đốc là Hứa Thế Hanh đem một đạo sang mạn Lạng Sơn, hẹn ngày tiến binh sang đánh.[70][71][72]

Mùa đông tháng 10, năm 1788, vua Lê Chiêu Thống đem quân Nhà Thanh do Tôn Sỹ Nghị chỉ huy tiến sang Đại Việt. Tướng trấn thủ của Tây Sơn là Ngô Văn Sở quyết định lui binh, Ngô Văn Sở sau khi đem các đạo quân rút lui, tức tốc sai Nguyễn Văn Tuyết chạy trạm vào Nam cáo cấp. Một mặt chặn ngang đất Trường Yên thuộc huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình làm giới hạn, đóng thủy quân ở hải phận Biện Sơn, quân bộ thì chia đồn đóng giữ khắp vùng núi Tam Điệp, hai mặt thủy bộ liên lạc với nhau, ngăn hẳn miền Nam với miền Bắc. Vì thế, việc ở bốn trấn Bắc Hà không hề thấu đến hai xứ Thanh, Nghệ.

Nguyễn Huệ đứng trước hai lựa chọn: Nam tiến hoặc Bắc tiến. Cả hai mặt trận đều khẩn cấp và cần đến ông, tuy nhiên, nếu ông quá sa vào một mặt trận thì mặt trận kia sẽ vỡ. Nguyễn Huệ nhận thức rằng quân ngoại quốc Mãn Thanh phía bắc là nguy cơ lớn hơn và gấp gáp hơn, nhưng vì tình hình nguy cấp nên ông không thể đánh địch theo chiến thuật trường kỳ như triều đại Nhà Lý, Nhà Trần trước đó đã làm để chống quân phương Bắc. Vì vậy, ông quyết định chọn cách đánh thần tốc để sớm giải quyết chiến trường ở miền Bắc. Ngay trước khi tiến quân ra Bắc, ông sai một bầy tôi tin cẩn là Diệm cầm thư của ông vào Nam dặn tướng Phạm Văn Tham cố phòng thủ chờ tiếp viện.[72]