Hòa Giải Tiền Tố Tụng Là Gì

Hòa Giải Tiền Tố Tụng Là Gì

Tố tụng dân sự là một trong những biện pháp người dân chủ động nhờ sự hỗ trợ của pháp luật để giải quyết các tranh chấp, bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác. Và với sự minh bạch của pháp luật, việc “đáo tụng đình” không phải là “vô phúc” mà là giải pháp hợp lý, hữu hiệu nhất để giải quyết mọi vấn đề trong mọi trường hợp tranh chấp.

Tố tụng dân sự là một trong những biện pháp người dân chủ động nhờ sự hỗ trợ của pháp luật để giải quyết các tranh chấp, bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác. Và với sự minh bạch của pháp luật, việc “đáo tụng đình” không phải là “vô phúc” mà là giải pháp hợp lý, hữu hiệu nhất để giải quyết mọi vấn đề trong mọi trường hợp tranh chấp.

Người tham gia tố tụng gồm những ai?

Người tham gia tố tụng dân sự là người thực hiện hay góp phần tham gia vào việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác. Các hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự chịu sự chi phối của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

Theo Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, tại Chương VI, người tham gia tố tụng, Điều 68, đương sự trong mỗi loại vụ việc được xác định khác nhau:

Đương sự trong vụ án dân sự, sẽ gồm:

Đương sự trong việc dân sự, sẽ gồm:

Những người tham gia tố tụng khác:

Bên cạnh các đương sự trong vụ việc dân sự, còn có những người tham gia tố tụng khác.

Bước 1: Nộp đơn khởi kiện cho cơ quan pháp lý có thẩm quyền

Để bắt đầu quá trình tố tụng dân sự, bạn cần nộp đơn khởi kiện cho cơ quan pháp lý có thẩm quyền

– Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện phải làm đơn khởi kiện theo Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và nộp trực tiếp tại Tòa án hoặc gửi qua dịch vụ bưu điện. Cụ thể:

– Cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của cá nhân đó; ở phần cuối đơn, cá nhân đó phải ký tên hoặc điểm chỉ.

– Cá nhân là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì người đại diện hợp pháp của họ có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của người đại diện hợp pháp của cá nhân đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp đó phải ký tên hoặc điểm chỉ.

– Cá nhân thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản này là người không biết chữ, người khuyết tật nhìn, người không thể tự mình làm đơn khởi kiện, người không thể tự mình ký tên hoặc điểm chỉ thì có thể nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện và phải có người có đủ năng lực tố tụng dân sự làm chứng. Người làm chứng phải ký xác nhận vào đơn khởi kiện.

– Cơ quan, tổ chức là người khởi kiện thì người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện phải ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức và họ, tên, chức vụ của người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức phải ký tên và đóng dấu của cơ quan, tổ chức đó; trường hợp tổ chức khởi kiện là doanh nghiệp thì việc sử dụng con dấu được thực hiện theo quy định của Luật doanh nghiệp.

Nguyên tắc hòa giải trong tố tụng dân sự là gì?

Theo Điều 205 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, nguyên tắc hòa giải là một nguyên tắc cơ bản và đặc trưng của tố tụng dân sự. Việc hòa giải có ý nghĩa hết sức quan trọng, vừa giảm bớt giai đoạn tố tụng kéo dài, vừa giải quyết vụ án triệt để mâu thuẫn giữa các đương sự cũng như tiết kiệm chi phí cho Nhà nước và công dân.

Nguyên tắc hòa giải trong tố tụng dân sự là một phương pháp giải quyết tranh chấp mà các bên liên quan đồng ý thương lượng và giải quyết vấn đề trước khi đưa vụ việc ra xét xử trước Tòa án

Đây cũng là nguyên tắc xác định trách nhiệm của Tòa án được ghi nhận tại Điều 10 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015: “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này.”

Theo đó, trách nhiệm của Tòa án là hòa giải vụ việc dân sự và tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự trên cơ sở tự nguyện. Tự nguyện tham gia hòa giải, tự nguyện thỏa thuận nội dung nếu nội dung thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội.

Tố tụng dân sự góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người mọi công dân. Hiểu rõ trình tự thủ tục và chấp hành đúng pháp luật là trách nhiệm của mỗi người dân, góp phần hoàn thiện trật tự xã hội, xây dựng xã hội tốt đẹp.

Đừng quên theo dõi và cập nhật những thông tin hữu ích trên trang web của chúng tôi. Khi cần, hãy liên hệ với chúng tôi để được hướng dẫn chi tiết hơn: [email protected]

Trong thời gian qua, nhiều bạn đọc quan tâm đến Bộ luật tố tụng hình sự các nước, trong đó Bộ luật Tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được nhiều quý bạn đọc quan tâm tới. Do đó, Luật ACC xin gửi tới quý bạn đọc bản dịch bằng tiếng Việt của Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ CỦA NƯỚC CỘNG HOÀ NHÂN DÂN TRUNG HOA

(Thông qua tại Kỳ họp thứ hai Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc lần thứ 5 ngày 01 tháng 7 năm 1979, và được sửa đổi theo Quyết định sửa đổi Luật tố tụng hình sự của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa thông qua tại Kỳ họp thứ tư Đại biểu Nhân dân Toàn quốc lần thứ 8 ngày 17 tháng 3 năm 1996)

MỤC ĐÍCH VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN 2

KHỞI TỐ VỤ ÁN, ĐIỀU TRA VÀ TRUY TỐ 27

MỤC 6: BẮT GIỮ  ĐỒ VẬT, TÀI LIỆU LÀM CHỨNG CỨ 34

THỦ TỤC XÉT XỬ GIÁM ĐỐC THẨM 59

MỤC ĐÍCH VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

Điều 1. Luật này được ban hành trên cơ sở của Hiến pháp và vì mục tiêu đảm bảo thực thi đúng Luật hình sự, trừng phạt tội phạm, bảo vệ nhân dân, bảo đảm an ninh công cộng và quốc gia và duy trì trật tự xã hội chủ nghĩa.

Điều 2. Mục đích của Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa là nhằm đảm bảo việc điều tra, làm sáng tỏ thực chất của tội phạm một cách chính xác, kịp thời, trừng trị người phạm tội, bảo đảm cho người vô tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, tăng cường nhận thức của người dân về sự cần thiết phải chấp hành pháp luật, tích cực đấu tranh với những hành vi phạm tội nhằm bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền cá nhân; tài sản, quyền dân chủ và các quyền khác của họ; đảm bảo tiến hành thuận lợi công cuộc phát triển chủ nghĩa xã hội.

Điều 3. Cơ quan công an  chịu trách nhiệm thực hiện việc điều tra, bắt, giam và điều tra ban đầu trong các vụ án hình sự. Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hành công tác kiểm sát, phê chuẩn lệnh bắt, tiến hành điều tra, truy tố các vụ án do Viện kiểm sát trực tiếp thụ lý. Toà án nhân dân đảm nhiệm việc xét xử. Trừ khi luật có quy định khác, không cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nào khác có những quyền hạn nêu trên.

Khi tiến hành tố tụng hình sự, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan công an phải thực hiện nghiêm chỉnh mọi quy định của Bộ luật này và các luật khác có liên quan.

Điều 4. Cơ quan an ninh, theo quy định của luật, giải quyết các vụ việc phạm tội gây nguy hại đến an ninh quốc gia, thực hiện những chức năng và quyền hạn tương tự như cơ quan công an.

Điều 5. Toà án nhân dân thực hành quyền xét xử độc lập theo quy định của pháp luật và Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố độc lập theo theo quy định của pháp luật, và cơ quan này không bị can thiệp bởi bất kỳ cơ quan hành chính, tổ chức hoặc cá nhân.

Điều 6. Trong khi tiến hành tố tụng hình sự, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan công an phải dựa vào quần chúng nhân dân, thực tế khách quan và luật pháp làm tiêu chí. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và không có bất cứ đặc quyền nào được đặt lên trên pháp luật.

Điều 7. Khi tiến hành tố tụng hình sự, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan công an phải phân công trách nhiệm, phối hợp, hỗ trợ và kiểm tra lẫn nhau nhằm đảm bảo thực thi luật pháp một cách chính xác và có hiệu quả.

Điều 8. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện việc giám sát tư pháp hoạt động, tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật.

Điều 9. Nhân dân các dân tộc có quyền sử dụng ngôn ngữ, chữ viết của dân tộc mình trong khi tham gia tố tụng tại Toà án. Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan công an phải cung cấp phiên dịch cho các bên tham gia tố tụng tại Toà không am hiểu ngôn ngữ, chữ viết thông dụng của địa phương.

Nơi người dân tộc thiểu số sống trong một cộng đồng tập trung hoặc nơi có một số dân tộc cùng sống trong một khu vực, việc xét xử của Toà án phải được tiến hành bằng ngôn ngữ thông dụng tại địa phương, và bản án, thông báo và các văn bản khác phải được ban hành theo ngôn ngữ viết thông dụng tại địa phương đó.

Điều 10. Khi xét xử các vụ án, Toà án nhân dân phải thực hiện chế độ xét xử phúc thẩm là chung thẩm.

Điều 11. Trừ khi Luật này có quy định khác, Toà án nhân dân phải tiến hành xét xử công khai các vụ án. Bị cáo có quyền bào chữa, và Toà án nhân dân phải có trách nhiệm đảm bảo cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình.

Điều 12. Không ai bị coi là có tội nếu không bị xét xử  và kết án bởi một Toà án nhân dân theo quy định của pháp luật.

Điều 13. Khi xét xử các vụ án, Toà án nhân dân phải áp dụng chế độ hội thẩm nhân dân tham gia xét xử theo Luật này.

Điều 14. Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan công an phải bảo đảm cho những người tham gia tố tụng được hưởng quyền tố tụng theo đúng pháp luật.

Trong các vụ án có người chưa thành niên dưới 18 tuổi phạm tội, có thể báo cho nghi can và người đại diện của bị cáo có mặt vào thời điểm thẩm vấn và xét xử.

Người tham gia tố tụng có quyền tố cáo thẩm phán, kiểm sát viên và điều tra viên có hành vi xâm phạm quyền tố tụng của công dân hoặc xúc phạm danh dự của họ.

Điều 15. Không truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu đã tiến hành điều tra thì phải đình chỉ vụ án, hoặc không truy tố, đình chỉ việc xét xử hoặc tuyên vô tội trong bất kỳ trường hợp nào sau đây:

Điều 16. Các quy định của Luật này được áp dụng đối với người nước ngoài phạm tội mà cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự.

Nếu người nước ngoài có các đặc quyền và miễn trừ ngoại giao phạm tội, việc truy cứu trách nhiệm hình sự được giải quyết bằng con đường ngoại giao.

Điều 17. Theo các hiệp ước quốc tế mà nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa đã ký kết hoặc tham gia hoặc dựa trên nguyên tắc có đi có lại, các cơ quan tư pháp Trung quốc và các nước khác có thể yêu cầu tương trợ tư pháp từ mỗi nước đối với các vấn đề hình sự.

Điều 18. Việc điều tra các vụ án hình sự do cơ quan công an tiến hành trừ khi luật có quy định khác.

Các tội tham ô, hối lộ, thiếu trách nhiệm của cán bộ nhà nước, và các tội xâm phạm các quyền cá nhân của công dân như giam giữ trái phép, bức cung, dùng nhục hình, trả thù, mưu hại và khám xét trái phép và tội phạm xâm phạm quyền dân chủ của công dân – do cán bộ nhà nước lợi dụng chức năng và quyền hạn để thực hiện – do Viện kiểm sát nhân dân điều tra. Nếu các vụ án liên quan đến các tội nghiêm trọng do cán bộ nhà nước thực hiện bằng việc lợi dụng chức năng và quyền hạn do Viện kiểm sát nhân dân trực tiếp giải quyết. Các vụ án này có thể được đưa vào hồ sơ điều tra của Viện kiểm sát nhân dân bằng một quyết định của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh hoặc cấp cao hơn.

Các vụ án thuộc tư tố do Toà án nhân dân trực tiếp giải quyết.

Điều 19. Toà án nhân dân sơ cấp có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự thông thường, trừ những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp trên theo quy định của Bộ luật này.

Điều 20. Toà án nhân dân trung cấp xử sơ thẩm những vụ án hình sự sau đây:

Điều 21. Toà án nhân dân cấp cao xử sơ thẩm những vụ án hình sự lớn trên phạm vi toàn tỉnh (thành phố, khu tự trị trực thuộc Trung ương).

Điều 22. Toà án nhân dân tối cao xử sơ thẩm những vụ án lớn trên phạm vi toàn quốc.

Điều 23. Khi cần thiết, Toà án nhân dân cấp trên có thể xét xử những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân cấp dưới;  nếu Toà án nhân dân cấp dưới nhận thấy vụ án hình sự ở cấp sơ thẩm có tình tiết nghiêm trọng, phức tạp cần phải được xét xử ở Toà án nhân dân cấp cao hơn thì có thể yêu cầu chuyển vụ án lên xét xử tại Toà án nhân dân cấp trên trực tiếp.

Điều 24. Một vụ án hình sự sẽ thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân nơi có tội phạm xảy ra. Nếu xét thấy vụ án xét xử tại Toà án nhân dân nơi bị cáo sinh sống thuận tiện hơn thì Toà án nhân dân nơi đó có xét xử vụ án.

Điều 25. Khi có hai hay nhiều Toà án nhân dân cùng cấp có thẩm quyền xét xử một vụ án thì việc xét xử sẽ được tiến hành tại Toà án nhân dân đầu tiên thụ lý vụ án. Khi cần có thể chuyển vụ án đến xét xử tại Toà án nhân dân nơi tội phạm xảy ra.

Điều 26. Toà án nhân dân cấp trên có thể chỉ định Toà án nhân dân cấp dưới xét xử những vụ án không rõ thẩm quyền và cũng có thể chỉ định Toà án nhân dân cấp dưới chuyển vụ án xét xử tại Toà án nhân dân khác.

Điều 27. Thẩm quyền xét xử đối với các vụ án của các Toà án đặc biệt được quy định riêng.

Điều 28. Trong bất kỳ trường hợp nào dưới đây cán bộ của cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát hay điều tra phải từ chối không tham gia tố tụng, và các đương sự và người đại diện theo pháp luật của họ cũng có thể yêu cầu những người nói trên không tham gia tố tụng:

1) Là một bên đương sự hoặc thân nhân của một bên đương sự trong vụ án;

2) Bản thân hoặc người nhà có lợi ích trong vụ án;

3) Là người làm chứng, giám định, bào chữa hoặc người đại diện có liên quan trong vụ án; hoặc

4) Là người có quan hệ khác với đương sự trong vụ án có thể làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án một cách khách quan.

Điều 29.  Thẩm phán, kiểm sát viên hoặc điều tra viên không được chấp nhận lời mời ăn tối hoặc quà tặng của các bên đương sự trong vụ án hoặc những người được các bên đương sự uỷ quyền và không được vi phạm quy định trong việc gặp gỡ các bên đương sự trong vụ án hoặc người được các bên đương sự uỷ quyền.

Bất kỳ thẩm phán, kiểm sát viên hoặc điều tra viên nào vi phạm quy định của đoạn trên đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Các bên đương sự trong vụ án và người đại diện theo pháp luật của họ có quyền yêu cầu người này không tham gia tố tụng.

Điều 30. Việc không tham gia tố tụng của thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên được quyết định bởi Chánh án Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát và Thủ trưởng cơ quan công an. Việc không tham gia tố tụng của Chánh án Toà án do Ủy ban thẩm phán của Toà án đó quyết định; Việc không tham gia tố tụng của Viện trưởng Viện kiểm sát và Thủ trưởng cơ quan công an do Uỷ ban kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp quyết định.

Điều tra viên không được tạm dừng việc điều tra vụ án trước khi có quyết định không tham gia tố tụng.

Nếu có quyết định từ chối đơn đề nghị không tham gia tố tụng, đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật có thể yêu cầu xem xét vấn đề lại một lần nữa.

Điều 31. Quy định tại các điều 28, 29 và 30 của Luật này này cũng được áp dụng đối với thư ký toà án, phiên dịch và giám định viên.

Điều 32. Ngoài quyền tự bào chữa, nghị can hoặc bị cáo có thể chọn một hoặc hai người khác làm người bào chữa. Những người sau đây có thể được chọn là người bào chữa:

2) Người do tổ chức hoặc đơn vị công tác của nghi can hoặc bị cáo đề nghị;

3) Người giám hộ hoặc họ hàng và bạn bè của nghị can, bị cáo.

Người đang chấp hành hình phạt hoặc người mà quyền tự do cá nhân bị tước đoạt hoặc hạn chế theo luật không được làm người bào chữa.

Điều 33. Nghị can trong vụ án do Viện kiểm sát truy tố có quyền chỉ định người bào chữa từ thời điểm vụ án được chuyển giao để thẩm tra trước khi truy tố. Bị cáo trong một vụ án thuộc tư tố có quyền chỉ định người bào chữa vào bất kỳ thời điểm nào.

Viện kiểm sát nhân dân, trong vòng ba ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án được chuyển đến để thẩm tra trước khi truy tố, thông báo cho nghi can quyền chỉ định người bào chữa. Toà án nhân dân phải, trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án thuộc tư tố, thông báo cho bị cáo quyền chỉ định người bào chữa.

Điều 34. Nếu vụ án do kiểm sát viên đưa ra trước toà và bị cáo không có người bào chữa do khó khăn về tài chính hoặc vì lý do khác thì Toà án nhân dân có thể chỉ định một luật sư có nghĩa vụ trợ giúp pháp lý làm người bào chữa cho họ.

Nếu bị cáo là người mù, câm hoặc điếc hoặc là người chưa thành niên và vì vậy chưa có người bào chữa thì Toà án nhân dân phải chỉ định một luật sư có nghĩa vụ trợ giúp pháp lý làm người bào chữa cho họ.

Nếu có khả năng bị cáo có thể bị tuyên tử hình và chưa có người bào chữa, Toà án nhân dân phải chỉ định luật sư có nghĩa vụ trợ giúp pháp lý làm người bào chữa cho họ.

Điều 35. Trên cơ sở tôn trọng sự thật khách quan và đúng pháp luật, người bào chữa có trách nhiệm phải trình bày tài liệu và ý kiến chứng minh sự vô tội của nghị can, bị cáo, tình tiết giảm nhẹ của tội phạm và sự cần thiết phải giảm hình phạt hoặc miễn truy cứu trách nhiệm hình sự, nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nghị can, bị cáo.

Điều 36. Kể từ ngày Viện kiểm sát nhân dân bắt đầu thẩm tra vụ án, luật sư bào chữa có thể tư vấn, trích, sao các tài liệu tư pháp liên quan đến vụ án và các chứng cứ  chứng minh về kỹ thuật, và có thể gặp gỡ, trao đổi với nghi can đang bị giam giữ. Với sự chấp thuận của Viện kiểm sát, những người bào chữa khác cũng có thể tư vấn, trích, sao các tài liệu nói trên, gặp gỡ, trao đổi với nghi can đang bị giam giữ.

Kể từ ngày Toà án nhân dân thụ lý vụ án, luật sư bào chữa có thể tư vấn, trích, sao các tài liệu về các tình tiết của tội phạm bị cáo buộc trong vụ án và có thể gặp gỡ, trao đổi với bị cáo đang bị giam giữ. Với sự chấp thuận của Toà án, những người bào chữa khác cũng có thể tư vấn, trích, sao các tài liệu nói trên, gặp gỡ, trao đổi với bị cáo đang bị giam giữ.

Điều 37. Với sự đồng ý của các nhân chứng hoặc các đơn vị và cá nhân liên quan, luật sư bào chữa có thể thu thập thông tin liên quan đến vụ án từ họ và cũng có thể yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân hoặc Toà án nhân dân thu thập chứng cứ, hoặc yêu cầu Toà án nhân dân thông báo cho nhân chứng có mặt tại toà và khai báo.

Với sự cho phép của Viện kiểm sát nhân dân hoặc Toà án nhân dân và với sự đồng ý của người bị hại, họ hàng thân thích hoặc nhân chứng do người bị hại cung cấp, luật sư bào chữa có thể thu thập thông tin liên quan đến vụ án từ họ.

Điều 38. Luật sư bào chữa và những người bào chữa khác không được giúp bị can, bị cáo che giấu, tiêu huỷ hoặc làm sai lệch chứng cứ hoặc thông cung, và không được đe doạ hoặc xúi giục nhân chứng sửa đổi lời khai của mình hoặc khai man hoặc tiến hành những hành vi khác để can thiệp vào tiến trình tố tụng của các cơ quan tư pháp.

Bất kỳ ai vi phạm các quy định nêu trên phải bị truy cứu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật.

Điều 39. Trong quá trình xét xử, bị cáo có thể từ chối người bào chữa tiếp tục bào chữa cho mình và có thể chỉ định người bào chữa khác.

Điều 40. Từ ngày vụ án được chuyển giao để thẩm tra trước khi truy tố, người bị hại trong một vụ án do Viện kiểm sát truy tố, người đại diện theo pháp luật hoặc họ hàng thân thích, và một bên trong vụ kiện dân sự phát sinh và người đại diện theo pháp luật họ được quyền chỉ định người đại diện tham gia vụ án. Tư tố viên trong một vụ án tư tố và người đại diện theo pháp luật của người này, và một bên đương sự trong vụ kiện dân sự và người đại diện pháp lý của người đại diện theo pháp luật của họ có quyền chỉ định người đại diện tham gia vụ án tại bất kỳ thời điểm nào

Trong vòng ba ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án được chuyển đến để thẩm tra trước khi truy tố, Viện kiểm sát nhân dân phải thông báo cho người bị hại và đại diện theo pháp luật của họ hoặc họ hàng thân thích và một bên đương sự trong vụ kiện dân sự phát sinh và người đại diện theo pháp luật của họ là họ có quyền chỉ định đại diện tham gia vụ án. Toà án nhân dân phải, trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án thuộc tư tố, thông báo cho tư tố viên và người đại diện theo phấp luật của họ và một bên đương sự trong vụ kiện dân sự và người đại diện theo pháp luật của họ  việc họ có quyền chỉ định đại diện tham gia vụ án.

Điều 41. Liên quan đến việc chỉ định đại diện được ủy quyền, các quy định của Điều 32 của Luật này phải được áp dụng với những sửa đổi cần thiết.

Điều 42. Mọi tình tiết chứng minh sự thật của vụ án đều là chứng cứ.

1) Vật chứng, tài liệu làm chứng;

2) Lời khai của người làm chứng;

4) Lời khai và lời bào chữa của nghị can, bị cáo;

6) Biên bản khám nghiệm, điều tra;

7) Tài liệu âm thanh, hình ảnh.

Tất cả những chứng cứ trên phải được kiểm tra trước khi có thể được sử dụng làm cơ sở để quyết định vụ án.

Điều 43. Thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên phải, theo trình tự thủ tục  được quy định trong luật, phải thu thập các loại chứng cứ khác nhau để có thể chứng minh sự có tội hay vô tội của nghị can, bị cáo và mức độ nghiêm trọng của tội phạm. Nghiêm cấm việc bức cung, dùng nhục hình và thu thập chứng cứ bằng các biện pháp như đe doạ, dụ dỗ, lừa gạt và các biện pháp bất hợp pháp khác. Phải được đảm bảo điều kiện để cho mọi công dân có liên quan đến vụ án hoặc người có thông tin về các tình tiết của vụ án cung cấp chứng cứ một cách khách quan và đầy đủ, trừ những trường hợp đặc biệt, họ có thể được mời tới để hỗ trợ điều tra vụ án.

Điều 44. Yêu cầu phê chuẩn việc bắt giữ của cơ quan công an, bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân và bản án của Toà án nhân dân phải đúng sự thật khách quan. Bất kỳ ai cố tình che giấu sự thật đều bị truy cứu trách nhiệm pháp lý.

Điều 45. Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan công an có quyền thu thập chứng cứ tại các đơn vị và cá nhân liên quan. Các đơn vị và cá nhân liên quan phải cung cấp các chứng cứ một cách chính xác.

Những chứng cứ liên quan đến bí mật quốc gia phải được giữ bí mật.

Người làm sai lệch, che giấu hoặc tiêu huỷ chứng cứ, bất kể là bên nào trong vụ án đều bị truy cứu trách nhiệm pháp lý.

Điều 46. Khi quyết định các vụ án, phải dựa trên chứng cứ, coi trọng quá trình điều tra, nghiên cứu; không được chỉ dựa vào lời khai. Bị cáo không thể bị coi là có tội và chịu hình phạt nếu chỉ có lời khai mà không có chứng cứ; bị cáo có thể bị kết tội và chịu hình phạt nếu có đủ chứng cứ đáng tin cậy, cho dù không có lời khai của người này.

Điều 47. Lời khai của nhân chứng có thể được sử dụng làm cơ sở quyết định vụ án chỉ sau khi nhân chứng đã được thẩm vấn và kiểm tra chéo tại toà án trước cả hai bên là kiểm sát viên và người bị hại cũng như bị cáo và người bào chữa, và sau khi lời khai của nhân chứng của tất cả các bên đã được nghe và kiểm chứng. Nếu qua điều tra phát hiện thấy nhân chứng cố tình khai man hoặc che giấu chứng cứ, Toà án phải xem xét xử lý theo pháp luật.

Điều 48. Tất cả những ai có thông tin về vụ án đều phải có trách nhiệm khai báo.

Những người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, người chưa thành niên không phân biệt được đúng, sai hoặc không có khả năng diễn đạt, trình bày chính xác thì không được làm chứng.

Điều 49. Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan công an phải đảm bảo sự an toàn của nhân chứng và họ hàng thân thích của họ.

Bất kỳ ai đe doạ, sỉ nhục, đánh đập hoặc trả thù nhân chứng hoặc họ hàng thân thích của người này, nếu hành vi cấu thành tội phạm, phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật; nếu vụ án không đủ nghiêm trọng để xử phạt hình sự thì phải bị xử phạt theo quy định của pháp luật về vi phạm an ninh công cộng.

Điều 50. Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan công an căn cứ vào các tình tiết của vụ án, có thể ban hành lệnh bắt buộc sự có mặt của bị can, bị cáo, lệnh cho người này tìm người bảo lĩnh trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc giám sát nơi cư trú của họ.

Điều 51. Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan công an có thể cho phép nghị can, bị cáo được phép có một người bảo lĩnh trong giai đoạn xét xử hoặc giám sát nơi cư trú của họ trong các trường hợp dưới đây:

(1) Họ có thể chịu sự giám sát của cộng đồng, giam hoặc đơn giản là áp đặt những hình phạt bổ sung; hoặc

(2) Họ có thể bị áp đặt một hình phạt tù có thời hạn tối thiểu và sẽ không gây nguy hại cho xã hội nếu họ được phép có một người bảo lĩnh trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc bị giám sát ở nơi cư trú.

Cơ quan công an sẽ thi hành quyết định cho phép nghị can, bị cáo có được một người bảo lĩnh trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc giám sát nơi cư trú của người này.

Điều 52. Nghị can, bị cáo bị tạm giam và người đại diện theo pháp luật hoặc họ hàng thân thích của người này có quyền yêu cầu để có được một người bảo lĩnh trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.

Điều 53. Nếu Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân hoặc cơ quan công an quyết định cho phép nghị can, bị cáo có được một người bảo lĩnh trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, họ phải ra lệnh cho nghị can, bị cáo tìm một người bảo lãnh hoặc đóng tiền bảo lĩnh.

Điều 54. Người bảo lãnh phải đáp ứng được những điều kiện sau:

(2) có khả năng thực hiện những trách nhiệm của một người bảo lãnh;

(3) được hưởng các quyền chính trị và không bị hạn chế tự do cá nhân; và

(4) có nơi cư trú và thu nhập ổn định.

Điều 55. Người bảo lĩnh phải thực hiện những nghĩa vụ sau:

(1) đảm bảo chắc chắn là người được bảo lĩnh tuân thủ những quy định của Điều 56 Luật này; và

(2) báo cáo ngay lập tức đến cơ quan thi hành khi phát hiện thấy người được bảo lãnh có thể thực hiện hoặc đã thực hiện những hành vi vi phạm quy định của Điều 56 Luật này.

Nếu người bảo lãnh không báo cáo ngay khi người được bảo lãnh thực hiện một hành vi vi phạm các quy định của Điều 56 Luật này thì sẽ bị phạt tiền. Nếu vụ án cấu thành tội phạm thì sẽ truy cứu trách nhiệm hình sự theo luật.

Điều 56. Nghị can hoặc bị cáo có người bảo lĩnh trogn giai đoạn chuẩn bị xét xử phải tuân thủ những quy định sau:

(1) không được rời khỏi thành phố hoặc thị trấn nơi cư trú mà không được phép của cơ quan thi hành ;

(2) có mặt đúng lúc tại toà án khi được triệu tập;

(3) không được can thiệp dưới bất kỳ hình thức nào với nhân chứng khi họ khai báo; và

(4) không được tiêu huỷ hoặc làm sai lệch chứng cứ hoặc thông cung.

Nếu bị can, bị cáo có người bảo lãnh trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vi phạm những quy định của đoạn trên, tiền bảo lĩnh đã đặt sẽ bị tịch thu. Ngoài ra, trong những trường hợp cụ thể, nghị can, bị cáo sẽ bị yêu cầu phải viết một bản cam kết ăn năn hối cải,đặt tiền bảo lĩnh một lần nữa hoặc giám sát nơi cư trú hoặc bị bắt. Nếu nghị can, bị cáo không vi phạm các quy định của đoạn trên trong thời hạn có người bảo lĩnh khi chờ xét xử, tiền bảo lĩnh sẽ được trả lại cho người này khi hết thời hạn.

Điều 57. Nghị can, bị cáo bị giám sát nơi cư trú phải tuân thủ những quy định sau:

(1) không được rời khỏi nơi cư trú khi chưa được phép của cơ quan thi hành án hoặc nếu không có nơi cư trú cố định thì không được rời khỏi nơi ở được chỉ định khi chưa được phép;

(2) không được gặp gỡ người khác khi chưa được phép của cơ quan thi hành;

(3) có mặt đúng lúc tại toà án khi được triệu tập;

(4) không được can thiệp dưới bất kỳ hình thức nào với nhân chứng khi họ khai báo; và

(5) không được tiêu huỷ hoặc làm sai lệch chứng cứ hoặc thông cung.

Nếu nghị can, bị cáo vi phạm những quy định của đoạn trên và nếu vi phạm là nghiêm trọng thì sẽ bị bắt.

Điều 58. Thời hạn Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân hoặc cơ quan công an quy định cho nghị can, bị cáo đang chờ xét xử sau khi có người bảo lĩnh không được vượt quá 12 tháng; thời hạn giám sát nơi cư trú không được vượt quá 6 tháng.

Trong thời hạn nghị can, bị cáo chờ xét xử sau khi có người bảo lĩnh hoặc khi đang bị giám sát nơi cư trú, không được tạm đình chỉ việc điều tra, truy tố và giải quyết vụ án. Nếu phát hiện thấy không cần truy cứu trách nhiệm hình sự bị can, bị cáo hoặc khi thời hạn chờ xét xử sau khi có người bảo lĩnh hoặc thời hạn giám sát nơi cư trú đã hết, phải huỷ bỏ ngay thời hạn này. Người có người bảo lĩnh chờ xét xử hoặc bị giám sát nơi cư trú và những đơn vị liên quan phải được thông báo ngay về việc huỷ bỏ thời hạn này.

Điều 59. Việc bắt giữ nghị can, bị cáo phải được Viện kiểm sát nhân dân phê chuẩn hoặc phải có quyết định của Toà án nhân dân và được Cơ quan công an thi hành.

Điều 60. Khi có chứng cứ chứng minh những tình tiết phạm tội và nghị can, bị cáo có thể bị phạt tù trở lên, và nếu những biện pháp như cho phép có người bảo lĩnh trong giai đoạn chờ xét xử hoặc giám sát  nơi cư trú vẫn không đủ để ngăn ngừa hành vi nguy hiểm cho xã hội, và do đó cần bắt, thì nghị can, bị cáo sẽ bị bắt ngay theo quy định của pháp luật.

Nếu nghị can, bị cáo cần phải bắt đang mắc bệnh nặng hoặc là phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú, có thể cho phép họ có người bảo lĩnh trong giai đoạn chờ xét xử hoặc bị giám sát nơi cư trú.

Điều 61. Cơ quan công an có thể bắt giữ ngay từ đầu một tội phạm quả tang hoặc nghi can chính trong bất kỳ trường hợp nào sau đây:

(1) khi đang chuẩn bị phạm tội, đang thực hiện hành vi phạm tội hoặc bị phát hiện ngay sau khi phạm tội;

(2) người bị hại hoặc nhân chứng chính mắt trông thấy xác nhận là đã thực hiện tội phạm;

(3) nếu chứng cứ phạm tội được phát hiện có trên thân thể hoặc tại nơi cư trú của người này;

(4) nếu tìm cách tự tử hoặc chạy trốn sau khi phạm tội, hoặc là một kẻ đào tẩu;

(5) nếu có khẳ năng sẽ tiêu huỷ chứng cứ, làm sai lệch chứng cứ hoặc thông cung.

(6) nếu không chịu nói tên và địa chỉ thật và không rõ lai lịch; và

(7) nếu bị nghi ngờ là đã thực hiện tội phạm ở nhiều nơi, nhiều lần, hoặc ở trong một băng nhóm.

Điều 62. Khi cơ quan công an cần bắt, giam một người ở nơi khác thì phải thông báo cho cơ quan công an nơi người cần bắt, giam cư trú, và cơ quan công an nơi đó phải phối hợp thực hiện.

Điều 63. Bất cứ người nào nêu dưới đây cũng có thể bị bắt giữ ngay lập tức bởi bất kỳ công dân nào và giao cho cơ quan công an, Viện kiểm sát nhân dân hoặc Toà án nhân dân xử lý:

(1) bất kỳ ai đang phạm tội hoặc bị phát hiện ngay sau khi có hành vi phạm tội;

Điều 64. Khi tạm giữ người, cơ quan công an phải có lệnh tạm giữ.

Trong vòng 24 giờ sau khi tạm giữ người, phải thông báo nguyên nhân tạm giữ và nơi giam giữ cho gia đình hoặc cơ quan nơi làm việc của người bị tạm giữ biết, trừ trường hợp việc thông báo gây trở ngại cho hoạt động điều tra hoặc không có cách nào để thông báo cho những người này.

Điều 65. Cơ quan công an phải tiến hành thẩm vấn người bị tạm giữ trong vòng 24 giờ sau khi tạm giữ. Khi xét thấy không cần tạm giữ thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ và ra lệnh trả tự do. Nếu cơ quan công an thấy cần bắt người bị tạm giữ khi chưa có đủ chứng cứ thì có thể cho phép người bị tạm giữ có người bảo lĩnh trong giai đoạn chờ xét xử hoặc giám sát nơi cư trú của người này.

Điều 66. Khi muốn bắt một nghi can, cơ quan công an phải nộp một yêu cầu bằng văn bản để phê chuẩn việc bắt giữ cùng hồ sơ vụ án và chứng cứ cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp thẩm tra và phê chuẩn. Khi cần thiết, Viện kiểm sát nhân dân có thể cử kiểm sát viên tham gia bàn bạc với cơ quan công an về những vụ án nghiêm trọng.

Điều 67. Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định việc thẩm tra và phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân đối với việc bắt nghi can. Những vụ án nghiêm trọng phải trình lên Uỷ ban kiểm sát xem xét, quyết định.

Điều 68. Sau khi thẩm tra vụ án do cơ quan công an đề nghị phê chuẩn bắt giữ, Viện kiểm sát nhân dân phải căn cứ vào các tình tiết để quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn bắt giữ, cơ quan công an phải thi hành ngay và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát  mà không được trì hoãn. Nếu Viện kiểm sát nhân dân không phê chuẩn bắt giữ thì phải nói rõ lý do; và nếu thấy cần điều tra bổ sung thì đồng thời phải thông báo cho cơ quan công an sự cần thiết này.

Điều 69. Nếu thấy cần phải bắt giam người đang bị tạm giữ thì trong vòng 3 ngày sau khi tạm giữ, cơ quan công an phải đề nghị Viện kiểm sát nhân dân thẩm tra phê chuẩn. Trường hợp đặc biệt có thể kéo dài thời gian đề nghị thẩm tra và phê chuẩn từ một đến bốn ngày.

Liên quan đến việc bắt một nghi can chính thực hiện tội phạm ở nhiều nơi, lặp đi lặp lại, hoặc ở trong một băng đảng, thời hạn nộp yêu cầu thẩm tra và phê chuẩn có thể gian hạn đến 30 ngày.

Trong thời hạn 7 ngày sau khi nhận được đề nghị phê chuẩn bắt giam của cơ quan công an, Viện kiểm sát nhân dân phải ra quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát nhân dân không phê chuẩn việc bắt giam, cơ quan công an phải thả ngay người bị bắt và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân mà không được trì hoãn. Nếu thấy cần điều tra thêm, và nếu người được tha đáp ứng được những điều kiện để có được người bảo lãnh tạm hoãn xét xử hoặc giám sát nơi cư trú, người này phải được phép có được người bảo lãnh tạm hoãn xét xử hoặc bị giám sát nơi cư trú theo luật.

Điều 70. Nếu thấy quyết định không phê chuẩn bắt giam của Viện kiểm sát nhân dân là không chính xác, cơ quan công an có thể yêu cầu xem xét lại, nhưng phải thả ngay người đang bị tạm giam. Nếu đề nghị không được chấp nhận, có thể đề nghị Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp xem xét. Viện kiểm sát nhân dân cấp trên phải kiểm tra ngay vụ việc và quyết định liệu có thay đổi hay không thay đổi và thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới và cơ quan công an thi hành quyết định của mình.

Điều 71. Khi thi hành việc bắt, cơ quan công an phải xuất trình lệnh bắt.

Trong thời hạn 24 giờ sau khi bắt người, phải thông báo nguyên nhân và nơi giam giữ cho gia đình hoặc cơ quan nơi người bị bắt làm việc biết, trừ trường hợp gây cản trở đến việc điều tra vụ án hoặc không có cách nào thông báo.

Điều 72. Trong thời hạn 24 giờ sau khi bắt người, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân phải tiến hành thẩm vấn người bị bắt theo quyết định của mình, cơ quan công an phải lấy lời khai của người bị bắt theo phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân. Khi thấy không cần phải bắt, phải trả tự do ngay người bị bắt và ban hành lệnh trả tự do.

Điều 73. Nếu Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân hoặc cơ quan công an xét thấy các biện pháp ngăn chặn áp dụng cho nghị can, bị cáo là không phù hợp thì những biện pháp này phải bị huỷ bỏ hoặc thay đổi ngay các biện pháp này. Nếu cơ quan công an trả tự do cho người bị bắt hoặc thay thế biện pháp bắt bằng biện pháp khác thì phải thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân nơi đẵ phê chuẩn lệnh bắt.

Điều 74. Trong trường hợp vụ án liên quan đến nghị can, bị cáo bị tạm giam không thể kết thúc trong thời hạn quy định trong luật này để tạm giam nghị can, bị cáo phục vụ điều tra, tiến hành thẩm tra trước khi truy tố, hoặc thủ tục sơ thẩm hoặc phúc thẩm và vì vậy cần điều tra , kiểm tra và xử lý thêm vẫn cần thiết, nghị can, bị cáo có thể được phép có một người bảo lĩnh trong giai đoạn chờ xét xử hoặc bị giám sát nơi cư trú.

Điều 75. Nếu những biện pháp ngăn chặn do Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân hoặc cơ quan công an vượt quá thời hạn quy định trong luật này, nghị can, bị cáo, đại diện theo pháp luật, họ hàng thân thích hoặc luật sư hoặc người bào chữa khác do nghị can, bị cáo chỉ định phải có quyền yêu cầu huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn đó. Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân hoặc cơ quan công an phải thả nghị can, bị cáo khi các biện pháp bắt buộc chống lại người này vượt quá thời hạn luật định, huỷ bỏ thời hạn chờ xét xử sau khi có được người bảo lĩnh hoặc giám sát nơi cư trú, hoặc tiến hành những biện pháp bắt buộc khác theo quy định của pháp luật.

Điều 76. Trong quá trình kiểm sát và phê chuẩn việc bắt nếu phát hiện vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra của cơ quan công an, Viện kiểm sát nhân dân phải thông báo cho cơ quan công an để khắc phục, và cơ quan công an phải thông báo việc khắc phục đã thực hiện cho Viện kiểm sát nhân dân.

Điều 77.  Người bị hại chịu thiệt hại vật chất do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra thì có quyền yêu cầu bồi thường  dân sự trong quá trình tố tụng hình sự.

Nếu gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, tập thể thì trong quá trình khởi tố, Viện kiểm sát nhân dân có thể khởi kiện dân sự.

Khi cần, Toà án nhân dân có thể niêm phong hoặc tịch biên tài sản của bị cáo.

Điều 78. Việc kiện dân sự phải tiến hành xét xử đồng thời với vụ án hình sự. Trong trường hợp cần thiết để tránh kéo dài thời gian xét xử vụ án hình sự, sau khi xét xử phần hình sự, Tòa án đó sẽ tiếp tục xem xét yêu cầu dân sự.

Điều 79. Thời hạn được tính bằng giờ, ngày, tháng.

Ngày và giờ bắt đầu thời hạn không được tính vào thời hạn.

Thời gian đi đường không nằm trong thời hạn luật định. Kháng cáo và các tài liệu khác phải gửi bằng đường bưu điện trước khi hết thời hạn không bị coi là quá hạn.

Điều 80. Nếu do nguyên nhân bất khả kháng hoặc lý do chính đáng khác, bên đương sự vi phạm quy định về thời hạn thì trong thời hạn 5 ngày sau khi không còn trở ngại nữa, người đó có thể đề nghị tiếp tục quá trình tố tụng lẽ ra đã được hoàn thành trước khi hết thời hạn.

Toà án nhân dân quyết định liệu có phê chuẩn hay không đơn đề nghị quy định tại đoạn trên.

Điều 81. Giấy triệu tập, thông báo và các tài liệu toà án khác phải được chuyển đến tận tay người nhận; nếu người đó đi vắng, người đã thành niên trong gia đình hoặc người có trách nhiệm trong cơ quan của người đó có thể nhận thay.

Nếu người nhận hoặc người nhận thay từ chối không chịu nhận hoặc từ chối ký tên và đóng dấu trên giấy biên nhận, thì người tống đạt tài liệu có thể mời hàng xóm của người đó hoặc người chứng kiến khác đến giải thích sự việc cho họ, sau đó để lại tài liệu tại nơi ở của người nhận, ghi vào biên bản giấy tống đạt chi tiết việc từ chối và ngày tống đạt và ký tên lên đó; việc tống đạt do đó được coi là đã hoàn thành.

Điều 82. Trong luật này, những thuật ngữ sau được hiểu là:

(1) “Điều tra” là công tác điều tra chuyên ngành và các biện pháp cưỡng chế do cơ quan công an, Viện kiểm sát nhân dân tiến hành trong quá trình giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

(2) "Các bên đương sự" có là người bị hại, tư tố viên, nghị can, bị cáo, nguyên đơn dân sự và bị đơn dân sự trong các vụ kiện dân sự.

(3) "Người đại diện theo pháp luật" là bố mẹ đẻ, bố mẹ nuôi,hoặc người giám hộ của người được đại diện và đại diện cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi cho người đó.

(4) "Người tham gia tố tụng" là các bên đương sự, người đại diện theo pháp luật, đại diện khác có liên quan trong vụ án, người bào chữa, người làm chứng, người giám định và người phiên dịch.

(5) “Đại diện được ủy quyền” có nghĩa là những người được người bị hại trong các vụ án thuộc công tố và người đại diện pháp lý của họ hoặc họ hàng thân thích và tư tố viên trong các vụ án thuộc tư tố và người đại diện theo pháp luật của họ chie định tham gia tố tụng thay mặt họ, và những người được các bên đương sự trong các vụ kiện dân sự và người đại diện theo pháp luật của họ chỉ định để tham gia tố tụng thay mặt họ.

(6) "Họ hàng thân thích" là chồng, vợ, cha, mẹ, con cái, anh chị em ruột của một người.

KHỞI TỐ VỤ ÁN, ĐIỀU TRA VÀ TRUY TỐ

Điều 83. Cơ quan công an hoặc Viện kiểm sát nhân dân phải, khi phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc kẻ bị tình nghi, phải tiến hành điều tra vụ án trong phạm vi thẩm quyền.

Điều 84. Bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào, sau khi phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc kẻ bị tình nghi, có quyền và nghĩa vụ phải thông báo về vụ án hoặc cung cấp thông tin cho cơ quan công an, Viện kiểm sát nhân dân hoặc Toà án nhân dân.

Khi các quyền tài sản hoặc quyền nhân thân bị xâm phạm, người bị hại có quyền báo cáo cơ quan công an, Viện kiểm sát nhân dân hoặc Toà án nhân dân về các dấu hiệu tội phạm hoặc tố giác kẻ bị tình nghi.

Cơ quan công an, Viện kiểm sát nhân dân hoặc Toà án nhân dân phải tiếp nhận toàn bộ tin báo, tố giác và thông tin. Nếu vụ án không thuộc thẩm quyền thì phải chuyển vụ án cho cơ quan có thẩm quyền và thông báo cho người đã tố giác, khiếu nại hoặc cung cấp thông tin. Trường hợp không thuộc thẩm quyền của mình nhưng cần có các biện pháp khẩn cấp thì phải tiến hành các biện pháp khẩn cấp trước khi chuyển vụ án cho cơ quan có thẩm quyền.

Nếu người phạm tội đến tự thú tại cơ quan công an, Viện kiểm sát nhân dân hoặc Toà án nhân dân thì áp dụng các quy định tại đoạn thứ ba.

Điều 85. Các tin báo, tố giác và thông tin được chuyển đến bằng văn bản hoặc lời nói. Cán bộ nhận các tin báo, tố giác hoặc thông tin bằng lời nói phải ghi lại thành văn bản, sau khi đã đọc lại cho người thông báo, tố giác hoặc cung cấp  thông tin thấy không còn sai sót thì cho họ tự ký tên hoặc đóng dấu vào biên bản.

Cán bộ nhận tin báo hoặc tố giác phải giải thích rõ cho người khiếu nại hoặc tố cáo biết trách nhiệm pháp lý phải chịu vì cáo buộc sai. Tuy nhiên, những trường hợp tin báo hoặc tố giác không phù hợp với thực tế, hoặc thậm chí có những sai lầm phải được phân biệt rõ ràng giữa vu cáo với điều kiện không có sự bịa đặt, tạo chứng cứ giả.

Cơ quan công an, Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân phải đảm bảo sự an toàn của người báo tin, người tố giác và người tố giác cũng như họ hàng thân thích của họ. Nếu người báo tin, người tố giác không muốn công khai tên tuổi, và việc báo tin, tố giác của mình  thì phải giữ bí mật cho họ.

Điều 86. Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân hoặc cơ quan công an phải, trong phạm vi thẩm quyền, phải nhanh chóng thẩm tra các tài liệu do người báo tin, tố giác cung cấp hoặc người phạm tội ra tự thú. Nếu thấy có dấu hiệu phạm tội và cần truy cứu trách nhiệm hình sự thì cần phải khởi tố vụ án. Nếu thấy rằng không có dấu hiệu phạm tội hoặc rõ ràng là không nghiêm trọng và không cần truy cứu trách nhiệm hình sự thì không khởi tố vụ án và thông báo cho người cung cấp thông tin biết lý do. Nếu người đó không đồng ý với quyết định thì có thể đề nghị xem xét lại.

Điều 87. Khi Viện kiểm sát nhân dân cho rằng cơ quan công an cần khởi tố, điều tra vụ án nhưng cơ quan công an không thực hiện hoặc khi người bị hại cho rằng cơ quan công an cần khởi tố, điều tra vụ án nhưng cơ quan công an không thực hiện và người bị hại khiếu nại đến Viện kiểm sát nhân dân, thì Viện kiểm sát nhân dân phải yêu cầu cơ quan công an nêu rõ lý do của việc không khởi tố vụ án. Nếu Viện kiểm sát nhân dân cho rằng lý do không khởi tố vụ án của cơ quan công an là không đúng thì phải thông báo cho cơ quan công an  không khởi tố vụ án biết, và sau khi nhận được thông báo đó, cơ quan công an phải khởi tố vụ án.

Điều 88. Đối với vụ án thuộc tư tố, người bị hại phải có quyền trực tiếp đưa vụ án ra trước toà. Nếu người bị hại chết hoặc mất năng lực hành vi, người đại diện theo pháp luật của họ và họ hàng thân thích có quyền đưa vụ án ra trước toà án. Toà án nhân dân phải thụ lý vụ án theo quy định của pháp luật.

Điều 89. Sau khi vụ án hình sự đã được khởi tố, cơ quan công an phải tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ chứng minh sự có tội hay vô tội của nghi can hoặc chứng minh tội phạm là nghiêm trọng hay ít nghiêm trọng. Những tội phạm nguy hiểm hoặc nghi can chính phải bị giam giữ ngay theo luật, và nghi can có đủ điều kiện bắt phải bị bắt theo luật.

Điều 90. Sau khi điều tra, cơ quan công an phải bắt đầu thẩm tra sơ bộ vụ án với những chứng cứ có được chứng minh các tình tiết của tội phạm, để kiểm tra chứng cứ đã được thu thập.

Điều 91. Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân hoặc cơ quan công an phải tiến hành thẩm vấn nghị can. Khi thẩm vấn phải có từ 2 điều tra viên trở lên tham gia.

Điều 92. Nghi can không cần phải bắt hoặc giam giữ có thể bị triệu tập đến một địa điểm chỉ định trong thành phố hoặc thị trấn nơi người phạm tội cư trú hoặc thẩm vấn tại nơi cư trú của người này. Tuy nhiên, người thẩm vấn phải xuất trình giấy tờ do Viện kiểm sát nhân dân hoặc cơ quan công an cấp.

Thời điểm thẩm vấn từ lúc việc triệu tập hoặc buộc phải trình diện không quá 12 giờ. Không được lợi dụng việc triệu tập hoặc buộc phải trình diện để giam giữ nghi can.

Điều 93. Khi thẩm vấn một nghi can, điều tra viên trước tiên phải hỏi nghi can liệu có thực hiện bất kỳ hành vi phạm tội nào hay không, và để cho họ trình bày các tình tiết phạm tội hoặc giải thích sự vô tội của mình; và sau đó có thể hỏi thêm. Nghi can phải trả lời thành thật các câu hỏi của điều tra viên, nhưng có quyền từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi nào không liên quan đến vụ án.

Điều 94. Trong khi thẩm vấn một nghi can bị câm hoặc điếc, cán bộ có khả năng sử dụng tốt ngôn ngữ dấu hiệu phải tham gia và những tình huống như vậy phải được ghi vào biên bản.

Điều 95. Biên bản thẩm vấn phải được đưa cho nghi can xem; nếu nghi can không thể đọc, biên bản phải được đọc cho họ nghe. Nếu thấy biên bản còn thiếu hoặc chưa chính xác, nghi can có thể bổ sung hoặc sửa chữa. Khi nghi can công nhận biên bản không có sai sót thì phải ký tên hoặc điểm chỉ vào đó. Điều tra viên cũng ký tên vào biên bản. Nếu nghi can yêu cầu viết một bản tường trình thì phải được phép làm điều này. Khi cần, điều tra viên cũng có thể yêu cầu nghi can viết bản tường trình.

Điều 96. Sau khi nghi can bị cơ quan điều tra thẩm vấn lần đầu tiên hoặc từ ngày bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn thì nghi can có thể chỉ định một luật sư tư vấn pháp lý và thực hiện việc khiếu nại, tố cáo thay mặt mình. Nếu nghi can bị bắt, luật sư được chỉ định có thể thay mặt họ để yêu cầu có người bảo lĩnh trong giai đoạn chờ xét xử. Nếu vụ án liên quan đến bí mật nhà nước, nghi can phải có được sự phê chuẩn của cơ quan điều tra đối với việc chỉ định luật sư.

Luật sư được chỉ định có quyền tìm kiếm từ cơ quan điều tra các thông tin về tội phạm bị tình nghi, và có thể gặp gỡ nghi can trong trại giam để tìm hiểu vụ án. Khi luật sư gặp gỡ nghi can trong trại giam, căn cứ vào tính nghiêm trọng của tội phạm và nếu thấy cần thiết thì cơ quan điều tra có thể cử người tham gia cuộc gặp. Nếu vụ án liên quan đến bí mật nhà nước, trước khi gặp nghi can, luật sư phải có  sự phê chuẩn của cơ quan điều tra.

MỤC 3:  LẤY LỜI KHAI NGƯỜI LÀM CHỨNG

Điều 97. Điều tra viên có thể lấy lời khai người làm chứng tại nơi ở hoặc nơi làm việc của họ nhưng phải xuất trình giấy chứng nhận của Viện kiểm sát hoặc cơ quan công an cấp. Khi cần thiết cũng có thể thông báo cho người làm chứng đến Viện kiểm sát nhân dân hoặc cơ quan công an để lấy lời khai.

Phải lấy lời khai của từng người làm chứng.

Điều 98. Khi lấy lời khai người làm chứng, phải hướng dẫn cho họ cung cấp chứng cứ và khai báo đúng sự thật và phải được thông báo cho họ về trách nhiệm pháp lý nếu cố tình khai báo sai hoặc che dấu chứng cứ.

Khi lấy lời khai của người làm chứng dưới 18 tuổi, có thể mời người đại diện theo pháp luật của họ tham gia.

Điều 99. Quy định tại Điều 95 của luật này cũng được áp dụng trong khi lấy lời khai của người làm chứng.

Điều 100. Các quy định trong tất cả các điều của Mục này sẽ được áp dụng trong việc lấy lời khai của người bị hại.

Điều 101. Điều tra viên phải tiến hành điều tra hoặc thẩm cứu hiện trường, đồ vật, người, thi thể có liên quan đến tội phạm. Khi cần thiết có thể chỉ định hoặc mời người chuyên gia đến khám nghiệm, kiểm tra dưới sự chỉ đạo của điều tra viên.

Điều 102. Mọi tổ chức và cá nhân phải có trách nhiệm bảo vệ hiện trường và thông báo ngay cho cơ quan công an cử người đến điều tra.

Điều 103. Để tiến hành điều tra, thẩm cứu, điều tra viên phải có giấy tờ của Viện kiểm sát nhân dân hoặc cơ quan công an cấp.

Điều 104. Nếu không rõ nguyên nhân chết, công an có quyền giải phẫu tử thi và báo cho người nhà nạn nhân có mặt.

Điều 105. Có thể khám người bị hại hoặc nghi can để xác định một số đặc điểm, tình trạng thương tích hoặc trạng thái sinh lý.

Nếu nghị can từ chối việc khám, khi xét thấy cần thiết điều tra viên có thể tiến hành việc khám bắt buộc.

Việc khám người đối với phụ nữ phải do điều tra viên là nữ hoặc bác sỹ tiến hành.

Điều 106. Kết quả khám nghiệm, kiểm tra phải được ghi thành biên bản có chữ ký hoặc đóng dấu của người tham gia khám nghiệm, kiểm tra và người làm chứng.

Điều 107. Khi thẩm tra vụ án, nếu thấy việc khám nghiệm, kiểm tra của cơ quan công an cần phải làm lại, Viện kiểm sát nhân dân có thể yêu cầu cơ quan công an khám nghiệm, kiểm tra lại và cử Kiểm sát viên đến cùng tham gia.

Điều 108. Khi cần thiết  và được sự phê chuẩn của giám đốc cơ quan an ninh, có thể tiến hành điều tra thực nghiệm để làm rõ các tình tiết của vụ án.

Khi tiến hành điều tra thực nghiệm, nghiêm cấm mọi hành vi nguy hiểm; làm tổn hại danh dự, nhân phẩm hoặc thuần phong, mỹ tục.

Điều 109. Để thu thập chứng cứ phạm tội, bắt giữ người phạm tội, điều tra viên có thể tiến hành khám người, đồ vật, nơi cư trú của nghị can và của bất kỳ ai che giấu tội phạm hoặc chứng cứ phạm tội, cũng như những nơi liên quan khác.

Điều 110. Mọi tổ chức hoặc cá nhân đều có nghĩa vụ phải giao nộp vật chứng, chứng cứ bằng tài liệu hoặc âm thanh-hình ảnh có thể chứng minh việc có tội hay vô tội theo yêu cầu của Viện kiểm sát và cơ quan công an.

Điều 111. Khi khám xét phải công khai lênh khám cho người bị khám xét.

Khi tiến hành việc bắt hoặc giam trong trường hợp khẩn cấp, có thể khám xét không cần lệnh.

Điều 112. Khi tiến hành khám xét, người bị khám xét hoặc thành viên trong gia đình họ, hàng xóm hoặc người chứng kiến khác phải có mặt.

Việc khám xét thân thể phụ nữ phải do cán bộ nữ tiến hành.

Điều 113. Việc khám xét phải được ghi thành biên bản có chữ ký hoặc đóng dấu của điều tra viên và người bị khám xét hoặc thành viên trong gia đình họ, hàng xóm hoặc những người chứng kiến khác. Nếu người bị khám xét hoặc các thành viên trong gia đình họ đã bỏ trốn  hoặc từ chối ký hoặc đóng dấu vào biên bản thì ghi rõ trong biên bản việc đó.

MỤC 6: THU GIỮ  ĐỒ VẬT, TÀI LIỆU LÀ CHỨNG CỨ

Điều 114. Bất cứ đồ vật,và tài liệu nào được phát hiện trong quá trình kiểm tra, hoặc khám xét có thể sử dụng để chứng minh việc có tội hay vô tội của nghi can bị thu giữ. Các đồ vật và tài liệu không liên quan đến vụ án có thể không bị thu giữ.

Những đồ vật, tài liệu bị thu giữ phải bảo quản, niêm phong cẩn thận không được sử dụng hoặc tiêu hủy.

Điều 115. Điều tra viên phải kiểm tra toàn bộ đồ vật, tài liệu bị thu giữ cùng với người chứng kiến và chủ đồ vật. Danh sách chi tiết sẽ được lập thành 2 bản tại nơi thu giữ và phải được điều tra viên, người chứng kiến và chủ đồ vật ký hoặc đóng dấu. Một bản sao danh sách đó phải được giao cho chủ đồ vật, và một bản sao khác lưu trong hồ sơ vụ án để tham khảo.

Điều 116. Khi cần phải thu giữ  bưu kiện, điện tín của nghị can, điều tra viên sau khi có phê chuẩn của cơ quan công an hoặc Viện kiểm sát nhân dân, có thể thông báo cho cơ quan bưu chính viễn thông kiểm tra và giao nộp bưu kiện, điện tín liên quan để thu giữ.

Khi không cần thiết phải tiếp tục thu giữ thì phải báo ngay cho cơ quan bưu chính viễn thông biết.

Điều 117. Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan công an cơ thể, do yêu cầu điều tra tội phạm, thẩm tra hoặc phong toả tài khoản hoặc đồ vật gửi giữ theo quy định.

Nếu tài khoản hoặc đồ vật gửi giữ của nghị can đã bị phong toả thì không thể phong toả lần thứ hai.

Điều 118. Nếu qua điều tra thấy đồ vật, tài liệu, bưu kiện, thư điện tín bị thu giữ hoặc tài khoản và đồ vật gửi giữ bị phong toả thật sự không liên quan đến vụ án thì phải huỷ bỏ việc thu giữ và phong toả trong vòng ba ngày, và hoàn trả đồ vật cho chính chủ hoặc cơ quan bưu chính viễn thông.

Điều 119. Khi có những vấn đề đặc biệt liên quan đến vụ án cần phải được giải quyết để làm rõ các tình tiết của vụ án, các chuyên gia có thể được chỉ định hoặc mời đến giám định .

Điều 120. Sau khi giám định, chuyên gia giám định phải viết bản kết luận giám định và ký tên vào đó.

Việc tái giám định cần thiết do có những mâu thuẫn trong việc giám định y tế về thương tích cá nhân và giám định bệnh về tâm thần  phải được tiến hành tại bệnh viện do chính quyền nhân dân cấp tỉnh chỉ định. Sau khi giám định, chuyên gia phải làm kết luận bằng văn bản có ký tên của mình và đóng dấu của bệnh viện.

Nếu chuyên gia cố tình kiểm định sai thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Điều 121. Cơ quan điều tra phải thông báo cho nghị can và người bị hại biết kết luận giám định sẽ được sử dụng làm chứng cứ trong vụ án. Việc giám định bổ sung hoặc giám định lại có thể được tiến hành dựa trên yêu cầu của nghị can hoặc người bị hại.

Điều 122. Thời gian kiểm tra tình trạng tâm thần của nghị can không được tính vào thời hạn giải quyết vụ án.

Điều 123. Nếu bị can cần phải bắt giam đang bỏ trốn, cơ quan công an có thể ban hành lệnh truy nã và tiến hành những biện pháp hữu hiệu để truy bắt và đưa ra trước công lý.

Cơ quan công an ở bất kỳ cấp nào cũng có thể ban hành lệnh truy nã trong khu vực mình quản lý, nếu vượt quá khu vực mình quản lý thì có thể yêu cầu cơ quan cấp trên có thẩm quyền ra quyết định.

Điều 124. Thời hạn tạm giam nghị can trong quá trình điều tra sau khi bắt không được quá 2 tháng. Đối với những vụ án phức tạp và không thể kết thúc điều tra trong thời hạn thì có thể được phép kéo dài thêm một tháng theo phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp.

Điều 125. Nếu vì những lý do đặc biệt, không thích hợp để đưa một vụ án phức tạp và nghiêm trọng ra xét xử thậm chí trong một thời hạn khá dài, Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải báo cáo Uỷ ban thường vụ của Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc để phê chuẩn việc hoãn xét xử vụ án.

Điều 126. Liên quan đến những vụ án sau, nếu việc điều tra không thể được kết thúc trong thời hạn quy định tại Điều 124 của Luật này, có thể được phép gia hạn thêm 2 tháng với sự phê chuẩn hoặc quyết định của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, khu tự trị hoặc thành phố trực thuộc Trung ương:

(1) các vụ án phức tạp và nghiêm trọng ở những vùng sâu, vùng xa mà việc đi lại gặp khó khăn;

(2) những vụ án nghiêm trọng liên quan đến các băng nhóm tội phạm;

(3) các vụ án phức tạp và nghiêm trọng mà tội phạm được thực hiện ở nhiều nơi; và

(4) các vụ án phức tạp và nghiêm trọng liên quan đến nhiều địa điểm và do đó khó thu thập chứng cứ.

Điều 127. Nếu trong vụ án có bị can có thể bị phạt tù có thời hạn đến 10 năm, việc điều tra vẫn có thể không kết thúc sau khi đã hết khoảng thời gian được gia hạn theo Điều 126 của Luật này, có thể được phép gia hạn thêm 2 tháng với sự phê chuẩn hoặc quyết định của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, khu tự trị hoặc thành phố trực thuộc Trung ương.

Điều 128. Nếu trong quá trình điều tra phát hiện thấy bị can phạm nhiều tội nghiêm trọng khác, thời hạn tạm giam để điều tra phải được tính lại, phù hợp với các quy định tại Điều 124 của Luật này, kể từ ngày phát hiện ra những tội phạm đó.

Nếu nghị can không nói tên, địa chỉ thật và không biết căn cước của người này, thời hạn tạm giam để điều tra phải được tính kể từ ngày tìm ra căn cước. Tuy nhiên, trước lúc đó, không được dừng việc điều tra và thu thập chứng cứ về tội phạm của người này. Nếu bằng chứng phạm tội là rõ ràng và đáng tin cậy và đầy đủ, vụ án có thể, theo tên mà bị can khai báo, được chuyển giao cho Viện kiểm sát nhân dân thẩm tra và truy tố.

Điều 129. Sau khi cơ quan công an đã kết thúc điều tra vụ án, nêu chứng cứ đã đầy đủ, rõ ràng và đáng tin cậy thì làm văn bản đề nghị truy tố chuyển cùng với hồ sơ và chứng cứ của vụ án sang Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp để thẩm tra và quyết định.

Điều 130. Nếu trong quá trình điều tra phát hiện thấy không cần truy cứu trách nhiệm hình sự nghị can, vụ án phải bị đình chỉ; nếu đã bắt bị can thì phải thả ngay và ban hành lệnh thả, và thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân phê chuẩn lệnh bắt biết.

Mục 10: ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN DO VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRỰC TIẾP THỤ LÝ

Điều 131. Việc điều tra các vụ án do Viện kiểm sát nhân dân trực tiếp thụ lý được điều chỉnh bởi các quy định của Chương này.

Điều 132. Nếu vụ án do Viện kiểm sát nhân dân trực tiếp thụ lý phù hợp với những điều kiện quy định trong Điều 60 và đoạn (4) hoặc (5) của Điều 61 của Luật này, do đó việc bắt hoặc tạm giữ nghị can là cần thiết, Viện kiểm sát nhân dân sẽ ra quyết định và cơ quan công an có trách nhiệm thi hành việc đó.

Điều 133. Người bị tạm giữ trong vụ án do Viện kiểm sát nhân dân trực tiếp thụ lý phải được thẩm vấn trongớthì hạn 24 giờ sau khi tạm giữ. Nếu phát hiện thấy không cần tạm giữ người này thì phải thả ngay và ban hành lệnh trả tự do. Nếu cần bắt nhưng chứng cứ không đủ thì người bị tạm giữ có thể được phép có được người bảo lĩnh trong giai đoạn chờ xét xử hoặc bị giám sát nơi cư trú.

Điều 134. Nếu Viện kiểm sát nhân dân thấy cần bắt người bị tạm giữ trong vụ án do mình trực tiếp thụ lý thì phải ra quyết định trong thời hạn 10 ngày sau khi tạm giữ. Trong những trường hợp đặc biệt, thời hạn quyết định việc bắt có thể được gia hạn từ 1 đến 4 ngày. Nếu việc bắt là không cần thiết thì phải thả ngay người bị tạm giữ; nếu cần điều tra thêm và người bị tạm giữ đáp ứng các điều kiện để có được người bảo lĩnh trong giai đoạn chờ xét xử hoặc giám sát nơi cư trú thì phải được phép làm những điều này theo quy định của luật.

Điều 135. Sau khi Viện kiểm sát nhân dân đã kết thúc điều tra thì phải ra quyết định truy tố, không truy tố hoặc đình chỉ vụ án.

Điều 136. Viện kiểm sát nhân dân thẩm tra trước khi ra quyết định đối với các vụ án cần truy tố.

Điều 137. Khi thẩm tra các vụ án, Viện kiểm sát nhân dân phải làm rõ những điểm sau:

(1) tình tiết, sự việc phạm tội có rõ ràng hay không, chứng cứ có đáng tin cậy và đầy đủ hay không, việc buộc tội và tính chất của tội phạm có được xác định đúng hay không;

(2) có bỏ lọt hành vi phạm tội và người phải truy cứu trách nhiệm hình sự nào không;

(3) liệu vụ án có thuộc trường hợp không đến mức cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự hay không

(4) liệu vụ án có liên quan đến vụ kiện dân sự hay không; và

(5) liệu hoạt động điều tra vụ án có được tiến hành hợp pháp không.

Điều 138. Trong thời hạn một tháng, Viện kiểm sát nhân dân phải ra quyết định đối với vụ án do cơ quan công an chuyển sang cùng với đề nghị truy tố; đối với những vụ án nghiêm trọng, phức tạp, có thể gia hạn thêm nửa tháng.

Nếu thẩm quyền thẩm tra và truy tố vụ án của Viện kiểm sát nhân dân bị thay đổi, thời hạn thẩm tra và truy tố phải được tính lại từ ngày Viện kiểm sát khác thụ lý vụ án sau khi thay đổi.

Điều 139. Khi thẩm tra một vụ án, Viện kiểm sát nhân dân phải thẩm vấn nghị can và lấy lời khai của người bị hại và những người khác do bị can và người bị hại uỷ quyền.

Điều 140. Trong khi thẩm tra vụ án, Viện kiểm sát nhân dân có thể yêu cầu cơ quan công an cung cấp chứng cứ cần thiết để chuẩn bị cho việc xét xử tại toà án.

Khi thẩm tra những vụ án nếu thấy cần điều tra bổ sung, Viện kiểm sát nhân dân có thể trả lại vụ án cho cơ quan công an để điều tra bổ sung hoặc tự mình điều tra.

Trường hợp cần điều tra bổ sung thì phải hoàn thành trong thời hạn 1 tháng. Việc điều tra bổ sung có thể được tiến hành tối đa là hai lần. Khi kết thúc điều tra bổ sung và vụ án được chuyển sang Viện kiểm sát, thời hạn thẩm tra và truy tố sẽ được Viện kiểm sát tính lại.

Đối với vụ án đã tiến hành điều tra bổ sung, nếu Viện kiểm sát nhân dân vẫn cho rằng chứng cứ là không đầy đủ và vụ án không đáp ứng các điều kiện để tiến hành truy tố, Viện kiểm sát nhân dân có thể quyết định không truy tố.

Điều 141. Khi xét thấy các tình tiết pham tội của nghị can đã xác định chắc chắn, chứng cứ là đáng tin cậy và đầy đủ và cần truy cứu trách nhiệm hình sự theo pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân phải ra quyết định truy tố và tiến hành truy tố tại Toà án nhân dân có thẩm quyền xét xử.

Điều 142. Nếu thấy nghị can thuộc một trong các trường hợp quy định trong Điều 15 của Luật này, Viện kiểm sát nhân dân phải ra quyết định không truy tố.

Liên quan đến vụ án ít nghiêm trọng và không cần xử phạt hình sự người phạm tội hoặc cần miễn trừ theo Luật hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có thể quyết định không truy tố.

Liên quan đến vụ án mà Viện kiểm sát quyết định không truy tố, Viện kiểm sát phải đồng thời huỷ bỏ việc thu giữ và phong toả tài sản hoặc đồ vật có giá trị trong quá trình điều tra. Nếu thấy cần xử phạt hành chính người không bị truy tố hoặc cần tịch thu những tài sản bất hợp pháp của người ấy, Viện kiểm sát nhân dân sẽ kiến nghị việc đó và chuyển vụ án cho cơ quan có thẩm quyền xử lý. Cơ quan có thẩm quyền phải thực hiện ngay và thông báo cho Viện kiểm sát biết việc xử lý.

Điều 143. Quyết định không truy tố phải được công bố công khai, và quyết định bằng hình thức văn bản phải được chuyển cho người không bị truy tố và cơ quan, tổ chức của người này. Nếu người đó đang bị tạm giam thì phải trả tự do ngay.

Điều 144. Khi quyết định không truy tố đối với vụ án do cơ quan công an đề nghị truy tố, Viện kiểm sát nhân dân phải giao quyết định bằng văn bản cho cơ quan công an.

Khi xét thấy quyết định không truy tố là không đúng, cơ quan công an có thể yêu cầu xem xét lại và nếu không được chấp nhận, có thể đề nghị Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp xem xét lại.

Điều 145. Khi quyết định không truy tố đối với những vụ án có người bị hại,  Viện kiểm sát nhân dân phải gửi quyết định miễn tố bằng văn bản cho người bị hại. Nếu không tán thành quyết định của Viện kiểm sát, thì trong thời hạn bảy ngày sau khi nhận quyết định, người bị hại có thể khiếu nại lên Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp và yêu cầu truy tố. Viện kiểm sát nhân dân phải thông báo quyết định thẩm tra của mình cho người bị hại biết. Nếu Viện kiểm sát nhân dân đồng ý với quyết định không truy tố, người bị hại có thể kiện ra Toà án nhân dân. Người bị hại cũng có thể trực tiếp kiện ra Toà án nhân dân mà không cần phải khiếu nại trước. Sau khi Toà án nhân dân đã thụ lý vụ án, Viện kiểm sát nhân dân phải chuyển hồ sơ vụ án liên quan cho Toà án nhân dân.

Điều 146. Nếu người mà Viện kiểm sát quyết định không truy tố, theo các quy định tại đoạn 2 của Điều 142 Luật này, vẫn không chấp nhận quyết định đó thì trong thời hạn bảy ngày sau khi nhận được quyết định bằng văn bản có thể khiếu nại đến Viện kiểm sát nhân dân. Viện kiểm sát nhân dân phải ra quyết định tái thẩm tra, thông báo cho người không bị truy tố biết và đồng thời gửi một bản sao quyết định cho cơ quan công an.

Điều 147. Toà án nhân dân sơ cấp và trung cấp xét xử sơ thẩm bởi một Hội đồng xét xử gồm ba thẩm phán hoặc các thẩm phán và các hội thẩm nhân dân tối đa là ba. Tuy nhiên, các vụ án được áp dụng thủ tục rút gọn tại Toà án nhân dân sơ cấp có thể được xét xử bởi một thẩm phán.

Toà án nhân dân cấp cao và Toà án nhân dân tối cao xét xử sơ thẩm dưới sự điều hành của Hội đồng xét xử gồm từ ba đến bảy thẩm phán hoặc các thẩm phán và các hội thẩm nhân dân tối đa là từ ba đến bảy người.

Khi thực hiện chức năng của mình tại Toà án nhân dân, hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán.

Đối với những vụ án có kháng cáo và kháng nghị, Toà án nhân dân xét xử bởi Hội đồng gồm từ ba đến năm thẩm phán. Thành viên của hội đồng xét xử phải có số lẻ.

Chánh án Toà án nhân dân hoặc Chánh toà chuyên trách chỉ định một thẩm phán làm chủ toạ phiên toà. Chánh án Toà án hoặc Chánh toà chuyên trách sẽ làm chủ toạ phiên toà nếu trực tiếp tham gia xét xử.

Điều 148. Khi nghị án, nếu Hội đồng xét xử có quan điểm khác nhau thì quyết định theo đa số, nhưng phải ghi ý kiến thiểu số vào biên bản. Biên bản nghị án phải có chữ ký của các thành viên Hội đồng xét xử.

Điều 149. Sau khi xét xử và nghị án, hội đồng xét xử phải ra bản án. Liên quan đến những vụ án nghiêm trọng, phức tạp, khó quyết định thì Hội đồng xét xử chuyển vụ án cho Chánh án Toà án ra quyết định đưa vụ án ra thảo luận và quyết định tại Uỷ ban thẩm phán. Quyết định của Uỷ ban thẩm phán phải được Hội đồng xét xử thi hành.

Điều 150. Sau khi thẩm tra vụ án Viện kiểm sát đã đề nghị truy tố, Toà án nhân dân phải quyết định mở phiên toà xét xử nếu cáo trạng đã nêu đầy đủ được các tình tiết, chứng cứ phạm tội rõ ràng, ngoài ra còn có danh sách chứng cứ và nhân chứng cũng như bản sao hoặc ảnh của các chứng cứ quan trọng gửi kèm.

Điều 151. Sau khi quyết định mở phiên toà, Toà án nhân dân cần làm những việc sau:

(1) quyết định thành viên của Hội đồng xét xử;

(2) chuyển cho bị cáo bản sao cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên toà. Nếu bị cáo chưa có người bào chữa thì phải được thông báo là có thể mời người bào chữa hoặc, khi cần thiết, chỉ định luật sư có nghĩa vụ trợ giúp pháp lý làm người bào chữa cho mình;

(3) thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân biết thời gian, địa điểm mở phiên toà ba ngày trước khi mở phiên toà;

(4) triệu tập các bên đương sự, và thông báo cho người bào chữa, người đại diện được uỷ quyền, nhân chứng, người giám định và người phiên dịch, và gửi giấy triệu tập và thông báo chậm nhất là ba ngày trước khi mở phiên toà phải; và

(5) công bố, ba ngày trước khi mở phiên toà, nội dung vụ án xét xử trước công chúng, họ tên bị cáo, thời gian và địa điểm mở phiên toà.

Những thủ tục tố tụng đề cập ở trên phải được ghi vào biên bản, có chữ ký của các thẩm phán và thư ký phiên toà.

Điều 152. Toà án nhân dân xét xử sơ thẩm công khai. Tuy nhiên, không được xét xử công khai những vụ án liên quan đến bí mật quốc gia hoặc bí mật đời tư.

Không xử công khai các vụ án do người chưa thành niên từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phạm tội. Nhìn chung cũng không xử công khai các vụ án do người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội.

Phải tuyên bố trước Toà lý do không xử các vụ án công khai.

Điều 153. Khi xét xử vụ án do Viện kiểm sát nhân dân truy tố tại Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân phải cử kiểm sát viên đến phiên toà để thực hành quyền công tố. Tuy nhiên, nếu vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn, Viện kiểm sát nhân dân có thể không cử kiểm sát viên đến phiên toà theo các quy định của Điều 175 Luật này.

Điều 154. Khi bắt đầu phiên toà, thẩm phán chủ toạ phiên toà phải kiểm tra sự có mặt của các bên đương sự tại toà và công bố nội dung vụ án; công bố danh sách, họ tên các thành viên trong Hội đồng xét xử, thư ký phiên toà, kiểm sát viên, người bào chữa, người đại diện đuợc uỷ quyền, người giám định và người phiên dịch; thông báo cho các bên đương sự quyền yêu cầu không tham gia tố tụng của các thành viên trong Hội đồng xét xử, thư ký phiên toà, kiểm sát viên, người giám định và người phiên dịch và thông báo cho bị cáo quyền bào chữa của họ.

Điều 155. Sau khi Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng tại phiên toà, bị cáo và người bị hại có thể trình bày ý kiến của mình về tội phạm bị truy tố trong cáo trạng, và kiểm sát viên có thể thẩm vấn bị cáo.

Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện được uỷ quyền có thể, với sự cho phép của thẩm phán chủ toạ, đặt câu hỏi đối với bị cáo.

Thẩm phán có thể thẩm vấn bị cáo.

Điều 156. Trước khi người làm chứng khai báo, thẩm phán phải yêu cầu họ khai báo đúng sự thật và giải thích cho người này về trách nhiệm pháp lý phải chịu nếu cố ý khai báo gian dối hoặc che giấu chứng cứ phạm tội. Kiểm sát viên, các bên đương sự, người bào chữa và người đại diện được uỷ quyền với sự đồng ý của thẩm phán chủ toạ phiên toà, có thể hỏi người làm chứng và người giám định. Nếu thẩm phán chủ toạ phiên toà thấy câu hỏi không liên quan đến vụ án thì phải yêu cầu dừng lại.

Thẩm phán có thể hỏi người làm chứng và người giám định.

Điều 157. Kiểm sát viên và người bào chữa phải xuất trình chứng cứ ra trước toà cho các bên kiểm tra; biên bản ghi lời khai của người làm chứng không có mặt tại toà, kết luận của người giám định không có mặt tại toà, biên bản khám nghiệm và những tài liệu khác được dùng làm chứng cứ phải được đọc tại phiên toà. Thẩm phán phải nghe ý kiến của kiểm sát viên, các bên đương sự, người bào chữa và người đại diện được uỷ quyền.

Điều 158. Trong quá trình xét xử tại toà, nếu Hội đồng xét xử có nghi ngờ về chứng cứ thì có thể tuyên bố hoãn để tiến hành điều tra để kiểm tra chứng cứ.

Khi tiến hành điều tra để kiểm tra chứng cứ, Toà án nhân dân có thể tiến hành thẩm tra, kiểm tra, bắt giữ, giám đinh, cũng như điều tra và phong toả tài sản.

Điều 159. Trong quá trình xét xử tại phiên toà, các bên đương sự, người bào chữa và người đại diện được uỷ quyền có quyền yêu cầu triệu tập nhân chứng mới, thu thập chứng cứ mới, giám định lại và các yêu cầu khác.

Toà án phải quyết định liệu có cho phép các yêu cầu nói trên hay không.

Điều 160. Với sự cho phép của thẩm phán chủ toạ phiên toà, kiểm sát viên, các bên đương sự, người bào chữa và người đại diện được uỷ quyền có thể trình bày quan điểm của mình về chứng cứ và vê vụ án, và có thể tranh luận với nhau. Sau khi thẩm phán chủ toạ phiên toà tuyên bố kết luận việc tranh luận, bị cáo sẽ được quyền nói lời cuối cùng.

Điều 161. Nếu có bất kỳ người tham gia tố tụng hoặc người nào khác vi phạm trật tự phiên toà, chủ toạ phải cảnh cáo yêu cầu ngừng vi phạm. Nếu không tuận lệnh thì có thể bị buộc phải ra khỏi phòng xử án. Nếu vi phạm là nghiêm trọng thì có thể bị phạt đến 1,000 tệ hoặc bị tạm giữ không quá 15 ngày. Việc phạt tiền hoặc tạm giữ phải được Chánh án Toà án phê chuẩn. Nếu người bị phạt không thoả mãn với quyết định phạt tiền hoặc tạm giữ thì có thể yêu cầu  Toà án nhân dân cấp trên trực tiếp xem xét lại. Tuy nhiên, không được tạm đình chỉ việc thi hành án phạt tiền hoặc tạm giữ  trong quá trình xem xét lại.

Bất kỳ ai tụ tập thành đám đông hò hét hoặc la ó vào phòng xử án, hoặc xỉ nhục, vu cáo, đe doạ hoặc đánh nhân viên tư pháp hoặc những người tham gia tố tụng, làm mất trật tự phiên toà, cấu thành tội phạm, phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo luật.

Điều 162. Sau khi bị cáo nói lời cuối cùng, thẩm phán chủ toạ phiên toà tuyên bố Toà tạm nghỉ và hội đồng xét xử  tiến hành nghị án, và căn cứ vào những tình tiết và chứng cứ đã được xác định theo những quy định của luật pháp có liên quan, ra một trong những phán quyết sau:

(1) nếu các tình tiết của vụ án rõ ràng, chứng cứ đáng tin cậy và đầy đủ, và bị cáo bị cho là có tội theo luật thì tuyên có tội;

(2) nếu bị cáo được cho là vô tội theo luật thì tuyên vô tội;

(3) nếu chứng cứ không đầy đủ và do đó bị cáo không thể bị coi là có tội thì phải tuyên vô tội vì chứng cứ không đủ và việc truy tố không có cơ sở.

Điều 163. Trong mọi trường hợp, các phán quyết phải được tuyen công khai.

Nếu phán quyết trong vụ án được tuyên tại toà, thì phải chuyển bản án bằng văn bản cho các bên đương sự và Viện kiểm sát nhân dân tiến hành truy tố trong thời hạn 5 ngày. Trong trường hợp phán quyết được tuyên sau đó trong một ngày được ấn định, thì phải chuyển bản án bằng văn bản ngay sau khi tuyên án cho các bên đương sự và Viện kiểm sát nhân dân tiến hành truy tố.

Điều 164. Bản án phải có chữ ký của các thành viên trong Hội đồng xét xử và thư ký phiên toà, đồng thời ghi rõ thời hạn kháng cáo và tên Toà án sẽ xét xử phúc thẩm.

Điều 165. Có thể tạm dừng xét xử nếu xảy ra một trong những tình huống ảnh hưởng đến tiến trình xét xử như sau:

(1) nếu cần triệu tập người làm chứng mới, thu thập chứng cứ mới, giám định bổ sung hoặc thực hiện việc điều tra khác;

(2) nếu kiểm sát viên thấy rằng vụ án mình truy tố cần điều tra bổ sung, và kiến nghị điều này; hoặc

(3) nếu việc xét xử không thể tiếp tục vì một bên đương sự đề nghị thay đổi một nhân viên tư pháp.

Điều 166. Nếu việc xét xử vụ án bị tạm đình chỉ theo quy định tại đoạn (2) Điều 165 Luật này, Viện kiểm sát nhân dân phải hoàn tất việc điều tra bổ sung trong thời hạn một tháng.

Điều 167. Thư ký phiên toà phải ghi lại bằng văn bản toàn bộ tiến trình tố tụng tại phiên toà, được chủ toạ phiên toà kiểm tra, và ký tên cùng với thư ký.

Phần biên bản phiên toà có lời khai của người làm chứng phải được đọc tại phiên toà hoặc đưa cho người làm chứng đọc. Sau khi người làm chứng xác nhận biên bản không có sai sót, họ phải ký tên hoặc điểm chỉ vào đó.

Biên bản phiên toà phải được đưa cho đương sự đọc hoặc đọc cho đương sự nghe. Nếu một bên đương sự cho rằng có sai sót trong biên bản thì có quyền yêu cầu bổ sung hay sửa chữa. Sau khi các bên đương sự ký xác nhận biên bản không có sai sót thì họ phải ký tên hoặc điểm chỉ vào đó.

Điều 168. Toà án nhân dân phải ra bản án đối với những vụ án đã bị Viện kiểm sát truy tố trong thời hạn 1 tháng hoặc chậm nhất là 1,5 tháng sau khi thụ lý. Nếu thuộc một trong những tình huống quy định trong Điều 126 của Luật này, thời hạn có thể được gia hạn thêm một tháng với sự phê chuẩn hoặc quyết định của Toà án cấp cao của một tỉnh, khu tự trị hoặc thành phố trực thuộc Trung ương.

Nếu thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân đối với một vụ án bị thay đổi, thời hạn giải quyết vụ án phải được tính lại từ ngày Toà án khác thụ lý vụ án sau khi có thay đổi.

Đối với vụ án Viện kiểm sát phải tiến hành điều tra bổ sung, Toà án phải bắt đầu tính thời hạn giải quyết mới sau khi hoàn tất việc điều tra bổ sung và vụ án đã được chuyển sang cho Toà.

Điều 169. Nếu Viện kiểm sát nhân dân phát hiện thấy việc giải quyết vụ án của Toà án vi phạm thủ tục tố tụng được quy định trong luật thì phải có quyền đề nghị Toà án thực hiện đúng.

Điều 170. Các vụ án thuộc tư tố bao gồm:

(1) các vụ án chỉ có thể được giải quyết dựa trên cơ sở khiếu nại, tố cáo;

(2) các vụ án mà người bị hại có chứng cứ chứng minh là các vụ án ít nghiêm trọng; và

(3) các vụ án mà người bị hại có chứng cứ chứng minh rằng bị cáo phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo luật bởi vì hành vi của bị cáo xâm phạm đến quyền cá nhân hoặc quyền tài sản của họ, trong khi đó, cơ quan công an hoặc Viện kiểm sát nhân dân không truy cứu trách nhiệm hình sự của bị cáo.

Điều 171. Sau khi thẩm tra án tư tố, Toà án nhân dân phải giải quyết theo từng trường hợp sau đây:

(1) nếu tình tiết phạm tội rõ ràng, chứng cứ đầy đủ, vụ án phải được xét xử tại phiên toà;

(2) trong trường hợp vụ án tư tố thiếu chứng cứ buộc tội, nếu tư tố viên không thể xuất trình chứng cứ bổ sung, Toà án phải thuyết phục người này rút lại việc truy tố hoặc ra lệnh bác bỏ việc truy tố.

Nếu tư tố viên, sau khi đã được triệu tập đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng, hoặc nếu bỏ ra khỏi phiên toà mà không được sự cho phép của Toà án, vụ án có thể bị coi là đã bị người này rút lại.

Nếu trong khi xét xử một vụ án, thẩm phán có nghi ngờ về chứng cứ và thấy cần thiết phải tiến hành điều tra xác minh chứng cứ, các quy định của Điều 158 của Luật này sẽ được áp dụng.

Điều 172. Toà án có thể hoà giải trong vụ án tư tố; tư tố viên có thể đạt được thoả thuận giải quyêt vụ án với bị cáo hoặc rút lại việc tố trước khi tuyên án. Không được tiến hành hoà giải trong những trường hợp quy định tại đoạn (3) Điều 170 của Luật này.

Điều 173. Trong quá trình tố tụng, bị cáo trong một vụ án tư tố có đưa ra yêu cầu phản tố đối với tư tố viên. Các quy định điều chỉnh việc tư tố được áp dụng đối với các yêu cầu phản tố.

Điều 174. Toà án nhân dân có thể áp dụng thủ tục rút gọn đối với những vụ án sau, do một thẩm phán xét xử:

(1) những vụ án do Viện kiểm sát truy tố mà bị cáo có thể bị phạt tù có thời hạn không quá 3 năm, bị giam, giám sát hoặc phạt tiền, có tình tiết rõ ràng, chứng cứ đầy đủ, được Viện kiểm sát đề nghị hoặc đồng ý áp dụng thủ tục rút gọn;

(2) những vụ án chỉ giải quyết dựa trên khiếu nại, tố cáo; và

(3) những vụ án do người bị hại truy tố, có chứng cứ chứng minh là án ít nghiêm trọng.

Điều 175. Đối với vụ án do Viện kiểm sát truy tố được xét xử theo thủ tục rút gọn, Viện kiểm sát nhân dân có thể không cử kiểm sát viên tham gia phiên toà. Bị cáo có thể trình bày lập luận và tự bào chữa liên quan đến tội phạm bị truy tố trong cáo trạng. Đối với những vụ án Viện kiểm sát cử kiểm sát viên tham gia phiên toà, bị cáo và người bào chữa có thể, với sự cho phép của thẩm phán, tranh luận với kiểm sát viên.

Điều 176. Đối với án tư tố được xét xử theo thủ tục rút gọn, sau khi đọc cáo trạng, bị cáo và người bào chữa có thể, với sự cho phép của thẩm phán, tranh luận với tư tố viên và người đại diện được uỷ quyền.

Điều 177. Việc xét xử các vụ án theo thủ tục rút gọn không chịu sự điều chỉnh của Mục 1 Chương này về thủ tục thẩm vấn bị cáo, hỏi nhân chứng và giám định viên, xuất trình chứng cứ, và tranh luận tại toà. Tuy nhiên, trước khi tuyên án, bị cáo phải đựoc nói lời cuối cùng.

Điều 178. Đối với vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn, Toà án nhân dân phải kết luận trong thời hạn 20 ngày sau khi thụ lý vụ án.

Điều 179. Nếu trong quá trình xét xử vụ án, Toà án phát hiện thấy thủ tục rút gọn là không phù hợp thì phải xét xử lại vụ án theo những quy định của Mục 1 hoặc Mục 2 Chương này.

Điều 180. Nếu bị cáo, tư tố viên hoặc người đại diện theo pháp luật của họ không nhất trí với bản án hoặc quyết định sơ thẩm của một Toà án cấp địa phương ở bất kỳ cấp nào; họ có quyền kháng cáo bằng văn bản hoặc lời nói lên toà án cấp trên trực tiếp. Nếu được bị cáo đồng ý, người bào chữa hoặc họ hàng thân thích của bị cáo có thể kháng cáo.

Một bên trong vụ kiện dân sự và người đại diện theo pháp luật của họ có thể kháng cáo  phần bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Toà án địa phương ở bất kỳ cấp nào giải quyết vụ kiện dân sự.

Bị cáo không thể bị tước bỏ quyền kháng cáo vì bất kỳ lý do gì.

Điều 181. Nếu Viện kiểm sát nhân dân địa phương ở bất kỳ cấp nào cho rằng rõ ràng có lỗi trong bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Toà án cùng cấp thì phải kháng nghị lên Toà án nhân dân cấp trên trực tiếp.

Điều 182. Nếu người bị hại hoặc đại diện theo pháp luật từ chối chấp nhận bản án sơ thẩm của Toà án địa phương ở bất kỳ cấp nào thì trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày nhận được bản án, có quyền yêu cầu Viện kiểm sát kháng nghị. Viện kiểm sát phải, trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện theo pháp luật của người này, Viện kiểm sát phải quyết định có kháng nghị hay không và trả lời cho họ biết.

Điều 183. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với bản án là mười ngày, thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định là năm ngày; thời hạn được tính từ ngày tiếp theo sau khi nhận được bản án, quyết định.

Điều 184. Nếu bị cáo, tư tố viên hoặc nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự trong vụ kiện dân sự kháng cáo thông qua Toà án đã tiến hành xét xử sơ thẩm, thì trong thời hạn ba ngày, Toà án phải chuyển đơn kháng cáo cùng hồ sơ, chứng cứ lên Toà án cấp trên trực tiếp; đồng thời phải giao bản sao đơn kháng cáo cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và bên đương sự kia.

Nếu bị cáo, tư tố viên, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự trong vụ kiện dân sự trực tiếp kháng cáo lên Toà án nhân dân cấp phúc thẩm thì Toà án trong vòng ba ngày phải chuyển đơn kháng cáo cho Toà án đã xét xử vụ án để chuyển đến Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và bên đương sự kia.

Điều 185. Nếu Viện kiểm sát nhân dân địa phương kháng nghị bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân cùng cấp thì phải làm văn bản kháng nghị thông qua Toà án nhân dân đã xét xử vụ án và gửi bản sao văn bản kháng nghị cho Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp. Toà án nhân dân đã xét xử vụ án phải chuyển bản kháng nghị cùng với hồ sơ, chứng cứ cho Toà án nhân dân cấp trên trực tiếp và bản sao bản kháng nghị cho các bên đương sự.

Nếu Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp cho rằng kháng nghị không thoả đáng thì có thể rút lại kháng nghị từ Toà án cùng cấp và thông báo cho Viện kiểm sát cấp dưới biết.

Điều 186. Toà án cấp phúc thẩm phải tiến hành xem xét toàn diện các tình tiết và áp dụng pháp luật trong bản án sơ thẩm và không được giới hạn phạm vi kháng cáo, kháng nghị.

Nếu chỉ có một số bị cáo trong vụ án đồng phạm kháng cáo thì vẫn xem xét giải quyết toàn bộ vụ án.

Điều 187. Toà án nhân dân cấp phúc thẩm phải thành lập một Hội đồng xét xử và mở phiên toà xét xử vụ án có kháng cáo. Tuy nhiên, nếu sau khi xem xét hồ sơ, thẩm vấn bị cáo và hỏi ý kiến các bên, bị cáo và người đại diện được uỷ quyền, hội đồng xét xử thấy rằng tình tiết phạm tội rõ ràng thì có thể không mở phiên toà. Toà án cấp phúc thẩm phải mở phiên toà xét xử vụ án có kháng nghị của Viện kiểm sát.

Khi Toà án cấp phúc thẩm mở phiên toà xét xử vụ án có kháng cáo, kháng nghị thì có thể tiến hành tại nơi xảy ra vụ án hoặc nơi có trụ sở của Toà án ban đầu đã xét xử vụ án.

Điều 188. Liên quan đến cả những vụ án do Viện kiểm sát kháng nghị và những vụ án do Viện kiểm sát truy tố do Toà án phúc thẩm xét xử, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp phải cử kiểm sát viên tham dự phiên toà. Mười ngày trước khi mở phiên toà, Toà án cấp phúc thẩm phải thông báo để Viện kiểm sát nghiên cứu hồ sơ vụ án.

Điều 189. Khi xét xử vụ án có kháng cáo, kháng nghị bản án sơ thẩm, tuỳ từng trường hợp Toà án cấp phúc thẩm phải giải quyết theo một trong những hướng  sau:

(1) nếu phán quyết ban đầu là đúng trong việc quyết định các tình tiết và áp dụng pháp luật và phù hợp với hình phạt, Toà án phải bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án ban đầu;

(2) nếu phán quyết ban đầu không có sai xót trong việc xác định các tình tiết nhưng áp dụng pháp luật không chính xác hoặc hình phạt không phù hợp, Toà án phải sửa bản án.

(3) nếu những tình tiết trong phán quyết ban đầu không rõ ràng hoặc chứng cứ không đầy đủ, Toà án có thể sửa đổi bản án sau khi điều tra rõ sự việc, hoặc có thể huỷ bản án ban đầu và trả lại vụ án cho Toà án đã xét sử sơ thẩm để xét xử lại.

Điều 190. Khi xét xử những vụ án có kháng cáo của bị cáo hoặc của người đại diện theo pháp luật, người bào chữa hoặc họ hàng thân thích của họ, Toà án cấp phúc thẩm có thể không tăng hình phạt đối với bị cáo.

Những hạn chế quy định tại khoản trên  sẽ không được áp dụng đối với những vụ án có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân hoặc kháng cáo của tư tố viên.

Điều 191. Nếu Toà án cấp phúc thẩm phát hiện thấy rằng trong khi xét xử vụ án Toà án cấp sơ thẩm vi phạm trình tự tố tụng quy định trong luật theo một trong những trường hợp sau thì phải huỷ bản án sơ thẩm và trả vụ án cho Toà án đã xét xử sơ thẩm để xét xử lại:

(1) vi phạm những quy định của Luật này liên quan đến việc xét xử công khai;

(2) vi phạm các quy định về rút truy tố;

(3) tước bỏ của các quyền hợp pháp của các bên đương sự được quy định trong Luật hoặc hạn chế những quyền này mà có thể ảnh hưởng đến tính khách quan của việc xét xử;

(4) thành lập Hội đồng xét xử không đúng theo quy định của pháp luật; hoặc

(5) có những vi phạm thủ tục tố tụng khác do pháp luật quy định có thể ảnh hưởng đến tính khách quan của việc xét xử.

Điều 192. Toà án đã xét xử ban đầu vụ án phải thành lập một Hội đồng xét xử mới đối với vụ án được trả để xét xử lại theo thủ tục xét xử sơ thẩm. Đối với bản án được tuyên sau khi xét xử lại, có thể kháng cáo, kháng nghị theo những quy định của Điều 180, 181 và 182 của Luật này.

Điều 193. Sau khi xem xét kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định sơ thẩm, Toà án cấp phúc thẩm có thể quýêt định bác kháng cáo, kháng nghị hoặc huỷ bỏ hoặc sửa đổi quyết định sơ thẩm theo các quy định của Điều 189, 190 hoặc 192 của Luật này.

Điều 194. Toà án nhân dân đã xét xử sơ thẩm vụ án phải tính thời hạn mới đối với việc xét xử những vụ án được Toà án phúc thẩm trả để xét xử lại từ ngày nhận lại vụ án.

Điều 195. Toà án cấp phúc thẩm phải xét xử các vụ án có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục sơ thẩm cùng với việc áp dụng những quy định của Chương này.

Điều 196. Sau khi thụ lý vụ án có kháng cáo, kháng nghị, Toà án nhân dân cấp phúc thẩm phải kết thúc xét xử trong vòng một tháng, hoặc chậm nhất là một tháng rưỡi. Khi có một trong những tình huống quy định tại Điều 126 của Luật này, có thể được gia hạn thêm một tháng sau khi có phê chuẩn hoặc quyết định của Toà án cấp cao của tỉnh, khu tự trị hoặc thành phố trực thuộc Trung ương. Tuy nhiên, đối với những vụ án có kháng cáo, kháng nghị do Toà án tối cao thụ lý thì thời hạn sẽ do chính Toà án tối cao quyết định.

Điều 197. Tất cả bản án, quyết định của cấp phúc thẩm và tất cả các bản án, quyết định của Toà án tối cao đều là chung thẩm.

Điều 198. Cơ quan công an, Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân phải quản lý những tài sản, vật có giá trị của nghị can, bị cáo, cũng như hoa lợi phát sinh từ đó, mà họ thu giữ hoặc phong toả để điều tra. Không một tổ chức hoặc cá nhân nào được biển thủ hoặc xử lý tài sản đó khi chưa được phép. Tài sản hợp pháp của người bị hại phải được trả lại cho họ ngay. Những đồ vật bị cấm và dễ bị hư hỏng phải bị xử lý theo những quy định của nhà nước liên quan.

Vật chứng phải được chuyển giao cùng với hồ sơ vụ án, nhưng đối với những vật không thể chuyển kèm theo hồ sơ được, bản kê và ảnh và những tài liệu, giấy tờ khác phải được chuyển giao cùng với hồ sơ vụ án.

Sau khi có bản án do Toà án tuyên có hiệu lực, toàn bộ tiền và tài sản bất hợp pháp bị phong toả hoặc thu giữ cũng như hoa lợi phát sinh, trừ những thứ được trả lại cho người bị hại theo luật, phải bị tịch thu và  nộp vào Kho bạc nhà nước.

Bất kỳ nhân viên tư pháp nào tham ô, biển thủ hoặc xử lý tiền và tài sản bất hợp pháp bị phong toả hoặc thu giữ cũng như hoa lợi phát sinh một cách trái pháp luật phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo luật; nếu hành vi không cấu thành tội phạm thì phải bị xử phạt hành chính.

Điều 199. Toà án nhân dân tối cao sẽ phê chuẩn án tử hình.

Điều 200. Đối với vụ án do Toà án nhân dân trung cấp xử sơ thẩm đã tuyên án tử hình,và bị cáo không có kháng cáo, thì Toà án nhân dân cấp cao phải tiến hành xem xét lại và xin ý kiến phê chuẩn của Toà án nhân dân tối cao. Nếu Toà án nhân dân cấp cao không nhất trí với án tử hình thì có thể đưa vụ án ra xét xử hoặc trả vụ án để xét xử lại.

Những vụ án Toà án cấp cao xét xử sơ thẩm đã tuyên án tử hình và bị cáo không có kháng cáo và những vụ án xét xử phúc thẩm y án tử hình đều phải xin ý kiến phê chuẩn của Toà án nhân dân tối cao.

Điều 201. Toà án nhân dân cấp cao sẽ phê chuẩn các vụ án do Toà án trung cấp xét xử tuyên án tử hình và việc thi hành án sẽ được hoãn trong thời hạn 2 năm.

Điều 202. Toà án nhân dân tối cao xem xét những vụ án có hình phạt tử hình và Toà án nhân dân cấp cao xem xét những vụ án có hình phạt tử hình có quyết định hoãn thi hành án đều phải được tiến hành bởi Hội đồng xét xử gồm ba thẩm phán.

Điều 203. Một bên đương sự hoặc người đại diện pháp luật hoặc họ hàng thân thích của họ có thể nộp đơn yêu cầu đến Toà án nhân dân hoặc Viện kiểm sát nhân dân liên quan đến hiệu lực pháp lý của bản án, quyết định nhưng không được đình chỉ việc thi hành bản án hoặc quyết định đó.

Điều 204. Nếu đơn yêu cầu của một bên đương sự hoặc đại diện pháp lụât của họ hoặc họ hàng thân thích có một trong những căn cứ sau đây, Toà án nhân dân phải xét xử lại vụ án:

(1) có chứng cứ mới chứng minh việc xác định các tình tiết trong bản án hoặc quyết định ban đầu rõ ràng là sai;

(2) chứng cứ làm căn cứ cho việc buộc tội và tuyên phạt là không đáng tin cậy và không đầy đủ, hoặc những chứng cứ quan trọng để chứng minh trong vụ án có mâu thuẫn với nhau;

(3) việc áp dụng pháp luật khi ra bản án hoặc quyết định ban đầu rõ ràng là sai; hoặc

(4) thẩm phán trong khi xét xử vụ án đã có hành vi tham ô, hối lộ, hoặc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thu lợi cá nhân hoặc làm sai lệch pháp luật khi ra bản án.

Điều 205. Nếu phát hiện thấy bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án mình có sai sót rõ ràng trong việc xác định sự thật của vụ án hoặc trong việc áp dụng pháp luật, Chánh án Toà án nhân dân các cấp phải yêu cầu Uỷ ban thẩm phán giải quyết.

Nếu Toà án nhân dân tối cao phát hiện thấy có những sai sót rõ ràng trong bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà án nhân dân cấp dưới, hoặc nếu Toà án cấp trên phát hiện thấy những sai sót rõ ràng trong bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp dưới thì có quyền lấy vụ án lên để xét xử hoặc yêu cầu Toà án cấp dưới xét xử lại.

Nếu Viện kiểm sát nhân dân tối cao phát hiện thấy những sai sót rõ ràng trong bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân các cấp, hoặc nếu Viện kiểm sát cấp trên phát hiện thấy những sai sót trong bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp dưới thì có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định đó đến Toà án cùng cấp theo thủ tục giám đốc thẩm.

Liên quan đến vụ án do Viện kiểm sát kháng nghị, Toà án nhân dân đã nhận kháng nghị phải thành lập Hội đồng xét xử lại; nếu các tình tiết làm cơ sở cho phán quyết ban đầu là không rõ ràng hoặc chứng cứ không đầy đủ thì có thể yêu cầu Toà án cấp dưới xét xử lại.

Điều 206. Một Hội đồng xét xử mới phải được thành lập để xét xử lại các vụ án của Toà án nhân dân theo thủ tục giám đốc thẩm. Nếu là vụ án xét xử ban đầu là án sơ thẩm thì phải được xét xử theo thủ tục sơ thẩm và bản án hoặc quyết định mới có thể bị kháng cáo, kháng nghị. Nếu là vụ án phúc thẩm hoặc đưa ra xét xử tại Toà án nhân dân cấp cao hơn thì phải được xét xử theo thủ tục phúc thẩm và bản án hoặc quyết định được tuyên là chung thẩm.

Điều 207. Đối với vụ án do Toà án nhân dân xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm thì phải kết thúc xét xử trong thời hạn ba tháng kể từ ngày ra quyết định lấy vụ án lên trực tiếp xét xử hoặc có quyết định xét xử lại vụ án. Nếu cần gia hạn thì không được quá sáu tháng.

Những quy định của đoạn trên được áp dụng cho thời hạn xét xử vụ án có kháng nghị do Toà án nhân dân thụ lý và xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm. Trường hợp cần thiết phải yêu cầu Toà án nhân dân cấp dưới xét xử lại vụ án có kháng nghị, quyết định về việc này phải được ban hành trong thời hạn một tháng kể từ ngày vụ án có kháng nghị được chấp nhận; những quy định của đoạn trên được áp dụng cho thời hạn xét xử vụ án của Toà án nhân dân cấp dưới.

Điều 208. Các bản án và quyết định phải được thi hành sau khi có hiệu lực pháp luật.

Những bản án và quyết định sau là có hiệu lực pháp luật:

(1) Những bản án và quyết định không có kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn theo quy định của pháp luật;

(2) Những bản án và quyết định chung thẩm; và

(3) Những bản án tử hình đã được Toà án nhân dân tối cao phê chuẩn và những bản án tử hình được hoãn thi hành trong hai năm do Toà án nhân dân cấp cao phê chuẩn.

Điều 209. Nếu bị cáo đang bị tạm giam được tuyên vô tội hoặc được miễn hình phạt bởi Toà án cấp sơ thẩm thì phải trả tự do cho họ ngay sau khi tuyên án.

Điều 210. Chánh án Toà án nhân dân tối cao ký lệnh thi hành những bản án tử hình được thi hành ngay do Toà án nhân dân tối cao tuyên hoặc phê chuẩn.

Nếu phạm nhân bị kết án tử hình được hoãn thi hành án hai năm, phạm tội mới không cố ý trong thời gian hoãn thi hành hình phạt thì có thể được giảm án theo luật khi hết thời hạn trên, cơ quan thi hành án phải có kiến nghị bằng văn bản đến Toà án cấp cao để ra lệnh; nếu có chứng cứ cho thấy phạm nhân phạm tội mới do cố ý thì phải thi hành án tử hình, Toà án cấp cao phải đưa vấn đề lên Toà án tối cao để thẩm tra và phê chuẩn.

Điều 211. Sau khi nhận được lệnh của Toà án tối cao thi hành hình phạt tử hình, Toà án nhân dân cấp dưới phải đưa ra thi hành bản án trong thời hạn 7 ngày. Tuy nhiên, khi có một trong những căn cứ sau, Toà án nhân dân cấp dưới phải tạm đình chỉ thi hành án và báo cáo ngay lên Toà án nhân dân tối cao để quyết định:

(1) nếu trước khi thi hành án, phát hiện thấy có thể có sai sót trong bản án;

(2) nếu trước khi thi hành án, phạm nhân tiết lộ những tình tiết phạm tội quan trọng hoặc có những hành động đáng được khen thưởng, vì vậy bản án có thể cần sửa đổi; hoặc

Khi không còn có căn cứ để tạm án quy định tại các mục (1) hoặc (2) của đoạn trên thì bản án chỉ có thể được thi hành sau khi đã báo cáo lên Chánh án Toà án nhân dân tối cao ký lại lệnh thi hành án tử hình khác. Nếu việc đình chỉ thi hành án theo căn cứ ghi trong mục (3) của đoạn trên thì phải yêu cầu Toà án nhân dân tối cao thay đổi hình phạt theo quy định pháp luật.

Điều 212. Trước khi thi hành án tử hình, Toà án nhân dân phải báo để Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp cử nhân viên đến giám sát việc thi hành án.

Có thể thi hành án tử hình dưới hình thức bắn hoặc tiêm thuốc độc.

Có thể thi hành án tử hình tại cơ sở thi hành án hoặc tại một nơi giam giữ chỉ định.

Nhân viên tư pháp chỉ huy việc thi hành án phải xác định căn cước của phạm nhân, hỏi phạm nhân có nói lời cuối cùng hoặc gửi lại thư tín gì hay không sau đó giao cho người thi hành để thi hành án tử hình. Trước khi thi hành án, nếu phát hiện có khả năng sai lầm thì phải tạm ngừng việc thi hành án và báo cáo Toà án nhân dân tối cao ra quyết định.

Việc thi hành án tử hình phải được công bố những không được thi hành công khai.

Sau khi thi hành xong án tử hình, thư ký Toà án có mặt tại nơi thi hành phải lập biên bản về việc đó. Toà án nhân dân đã thi hành án phải gửi báo cáo về việc thi hành án cho Toà án nhân dân tối cao

Sau khi thi hành xong án tử hình,  Toà án nhân dân đã thi hành án tử hình phải báo cho gia đình phạm nhân biết.

Điều 213. Khi phạm nhân được đưa đi thi hành án, Toà án nhân dân ra lệnh thi hành phải chuyển giao tài liệu pháp lý liên quan cho trại giam hoặc cơ quan thi hành án khác.

Đối với những người bị tuyên án tử hình nhưng được hoãn thi hành trong 2 năm, hoặc tù chung thân, hoặc tù có thời hạn theo luật phải được cơ quan công an chuyển giao choẩtị giam để thi hành hình phạt. Đối với phạm nhân bị kết án tù có thời hạn, nếu thời gian còn lại của hình phạt không quá 1 năm trước khi được chuyển giao để thi hành án, hình phạt phải được thi hành bởi trại tạm giam. Đối với phạm nhân bị kết án tạm giam, hình phạt phải do cơ quan công an thi hành.

Đối với tội phạm chưa thành niên, hình phạt phải được thi hành tại trại cải tạo dành cho ngưòi chưa thành niên.

Cơ quan thi hành án phải đưa phạm nhân vào trại giam ngay và thông báo cho gia đình phạm nhân biết.

Phạm nhân bị kết án tù có thời hạn hoặc tạm giam, sau khi chấp hành xong hình phạt, phải được cơ quan thi hành án cấp giấy tha tù.

Điều 214. Phạm nhân bị kết án tù có thời hạn hoặc tạm giam, nếu có một trong những điều kiện sau, có thể được phép tạm thời thi hành án bên ngoài trại giam:

(1) có bệnh nặng và cần trả tự do có điều kiện để điều trị y tế;

(2) Phụ nữ có thai hoặc đang cho con đẻ bú.

Nếu phạm nhân được tạm tha để điều trị y tế có thể gây nguy hiểm đến cộng đồng hoặc phạm nhân tự gây thương tích cho mình hoặc tự làm mình tàn tật thì có thể không được trả tự do có điều kiện để điều trị.

Nếu phạm nhân thực sự là bị bệnh nặng và phải được trả tự do có điều kiện để điều trị y tế thì phải có tài liệu xác nhận của bệnh viện do chính quyền nhân dân chỉ định ở cấp tỉnh, và phải chịu sự kiểm tra và phê chuẩn theo thủ tục pháp luật quy định.

Nếu phát hiện thấy phạm nhân được trả tự do có điều kiện để điều trị y tế không đáp ứng những điều kiện để được tạm tha hoặc phạm nhân vi phạm nghiêm trọng những quy định liên quan đến việc tha thì phải buộc đưa vào lại trại giam ngay.

Đối với phạm nhân bị kết án tù có thời hạn hoặc tạm giam không thể chăm sóc bản thân trong đời sống hàng ngày, nếu việc chấp hành hình phạt bên ngoài trại giam không gây nguy hiểm cho cộng đồng thì có thể được phép tạm thời chấp hành hình phạt bên ngoài trại giam.

Nếu phạm nhân được phép tạm thời chấp hành hình phạt bên ngoài trại giam, hình phạt phải được thi hành bởi cơ quan công an tại nơi phạm nhân cư trú, cơ quan thi hành án phải kiểm soát chặt chẽ và giám sát người này và chính quyền cấp cơ sở hoặc đơn vị nơi phạm nhân công tác phải hỗ trợ giám sát.

Điều 215. Cơ quan phê chuẩn việc tạm thời chấp hành án bên ngoài trại giam phải gửi bản sao quyết định phê chuẩn cho Viện kiểm sát nhân dân. Nếu Viện kiểm sát nhân dân cho rằng việc tạm thời chấp hành hình phạt bên ngoài trại giam là không thích hợp thì trong thời hạn 1 tháng kể từ ngày nhận được thông báo phải đề nghị bằng văn bản với cơ quan phê chuẩn việc tạm thời chấp hành hình phạt bên ngoài trại giam. Cơ quan này sau khi nhận được đề nghị bằng văn bản của Viện kiểm sát nhân dân phải kiểm tra lại quyết định của mình.

Điều 216. Ngay khi những điều kiện cho phép phạm nhân được tạm thời chấp hành hình phạt bên ngoài trại giam không còn, nếu thời hạn chấp hành hình phạt chưa hết thì phải đưa người này trở lại trại giam ngay.

Nếu phạm nhân chết trong khi đang tạm thời chấp hành hình phạt bên ngoài trại giam thì trại giam phải được thông báo ngay về việc đó.

Điều 217. Cơ quan công an phải giao phạm nhân bị kết án tù được hoãn thi hành án cho cơ quan, đơn vị của người đó hoặc chính quyền cấp cơ sở giám sát.

Phạm nhân được trả tự do có điều kiện phải bị cơ quan công an giám sát trong thời gian thử thách.

Điều 218. Hình phạt chịu sự giám sát của quần chúng hoặc tước các quyền chính trị được áp dụng đối với một phạm nhân do cơ quan công an thi hành. Sau khi chấp hành xong hình phạt, cơ quan thi hành án phải thông báo cho chính phạm nhân biết và công bố công khai đến người  có liên quan là đã kết thúc việc giám sát của quần chúng và những quyền chính trị của người này đã được khôi phục.

Điều 219. Phạm nhân bị phạt tiền, nếu không nộp tiền phạt trong thời hạn quy định thì Toà án nhân dân có quyền bắt buộc người đó phải nộp. Có thể quyết định giảm hoặc miễn tiền phạt đối với những trường hợp thật sự khó khăn trong việc nộp phạt do gặp tai hoạ bất khả kháng.

Điều 220. Tất cả các bản án có hình phạt tịch thu tài sản, kể là hình phạt bổ sung hay hình phạt chính đều do Toà án nhân dân thi hành, khi cần thiết Toà án nhân dân có thể phối hợp với cơ quan công an để thi hành án.

Điều 221. Cơ quan thi hành án phải chuyển cho Viện kiểm sát nhân dân những trường hợp phạm nhân tiếp tục phạm tội trong thời gian chấp hành án hoặc khi phát hiện thêm những hành vi phạm tội chưa được biết khi xét xử để xử lý.

Những phạm nhân bị giám sát tại cộng đồng, giam, tù có thời hạn hoặc tù chung thân thật sự hối cải hay có thành tích đáng được khen thưởng trong thời gian chấp hành án và nên được giảm án hoặc trả tự do có điều kiện đều phải do cơ quan thi hành án đề nghị bằng văn bản để Toà án nhân dân xem xét, quyết định.

Điều 222. Nếu Viện kiểm sát nhân dân cho rằng quyết định giảm án hoặcỉtả tự do có điều kiện của Toà án nhân dân là không phù hợp, trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được bản sao quyết định, phải có đề nghị bằng văn bản lên Toà án nhân dân để sửa chữa. Trong thời hạn một tháng kể từ ngày nhận được đề nghị, Toà án nhân dân phải thành lập một Hội đồng xét xử mới để giải quyết vụ án và ra quyết định cuối cùng.

Điều 223. Trong thời gian thi hành án, nếu thấy bản án có sai sót hoặc người phạm tội có khiếu nại thì trại giam hoặc cơ quan thi hành án phải chuyển cho Viện kiểm sát nhân dân hoặc Toà án nhân dân đã ra bản án ban đầu để giải quyết.

Điều 224. Viện kiểm sát nhân dân giám sát việc thi hành án hình sự của cơ quan thi hành án để đảm bảo việc thi hành tuân thủ đúng pháp luật. Nếu phát hiện thấy bất cứ vi phạm nào thì Viện kiểm sát nhân dân phải báo ngay cho cơ quan thi hành án để sửa chữa kịp thời.

Điều 225. Phòng an ninh quân đội có thẩm quyền điều tra những tội phạm xảy ra trong quân đội.

Tội phạm do người phạm tội thực hiện trong trại giam do trại giam điều tra.

Việc giải quyết các vụ án hình sự của phòng an ninh quân đội và trại giam cũng được điều chỉnh bởi những quy định có liên quan của Luật này./.

- Nguyên bản tiếng anh đăng trên website: http://chinacourt.org của toà án nhân dân tối cao nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.

- Dịch và hiệu đính: -  Nguyễn Vĩnh Long

- Nguồn: Thông tin khoa hoc hiểm sát- Viện khoa hoc kiểm sat - Số 3+4/2007